samedi 16 mai 2009

Bươc Đi Trong Thần Khí

VietCatholic News (13 May 2009 16:53)
Bước đi trong Thần Khí (Galata 5,16)

Bài giảng của Đức cha Nguyễn văn Khảm ngày lễ phong chức giám mục cho Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản tại Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột ngày 12.5.2009

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố năm hồng ân của Chúa.”

Chúa Giêsu đã dõng dạc đọc những lời này trong hội đường Nagiarét và sau đó, Người công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-21).

Thế nhưng tôi tự hỏi, có thực sự là lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm? Có thực sự là mọi người mù được sáng mắt? Dĩ nhiên không thể phủ nhận rằng Chúa Giêsu đã chữa lành một vài người mù như Phúc Âm kể lại, nhưng chẳng nhẽ trên cả đất nước Israel lúc ấy, chỉ có vài người mù đó thôi sao? Còn cả trăm cả ngàn người mù khác nữa, liệu họ có được sáng mắt không? Mà nếu chưa được thì sao có thể gọi là ứng nghiệm?

Thế rồi, có thực sự là mọi kẻ giam cầm đều được tha và mọi kẻ bị áp bức đều được trả lại tự do? Ngay cả Gioan Tẩy giả, người thân của Chúa Giêsu, lúc ấy đang ngồi tù, cũng đã phải sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Nghe trong câu hỏi có nỗi nghi ngờ, nghi ngờ vì đợi mãi vẫn không được tha, nghi ngờ vì chờ hoài vẫn không thấy tự do! Đã thế, liệu có thể nói là lời Kinh Thánh đã ứng nghiệm không?

Đi xa hơn nữa đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, khi chính Người bị bắt, bị giam cầm, bị áp bức… liệu chính Người có khả năng thoát khỏi xiềng xích ngục tù, khỏi bàn tay áp bức chăng? Các sách Tin Mừng kể lại rằng Chúa Giêsu đã bị đánh đập dã man, bị vác khổ giá và cuối cùng bị đóng đinh trên thập giá. Đến chính bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi ngục tù thì lấy đâu ra tự do để ban tặng cho các tù nhân? Đến chính Chúa Giêsu cũng bị áp bức thì lấy đâu ra sức mạnh để giải thoát những người bị áp bức?

Nêu lên những vấn nạn như thế không nhằm khước từ lời khẳng định của Chúa Giêsu, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”, nhưng là để đọc lại những lời này trong một ánh sáng mới.

Mù loà không chỉ đơn thuần là khuyết tật thể lý nhưng có thể còn là khuyết tật tri thức, tâm lý và tâm linh. Có những khi ta nhìn một sự kiện, một biến cố mà không rõ ngọn nguồn sự việc vì thiếu hiểu biết, nghĩa là mù loà về mặt tri thức. Có những khi ta mở mắt thật to để nhìn mà vẫn không thấy được cái tốt của người khác chỉ vì ta cố chấp, đó là một thứ mù loà về tâm lý. Và nhiều khi ta nhìn rõ thế giới vật chất này nhưng lại không thấy mối tương quan giữa thế giới này và Đấng tạo dựng nên nó, tức là một thứ khuyết tật tâm linh, cho nên mới có lời cầu nguyện: “Xin mở cho con đôi mắt, để thấy tình yêu Chúa khắp nơi”.

Cũng thế, có nhiều thứ ngục tù. Có những thứ ngục tù không giam hãm nổi tự do của con người, và ngược lại, có những thứ tự do biến con người thành tù nhân. Những nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc chỉ có thể giam hãm thân xác con người chứ không thể giam hãm tự do hiểu như một giá trị tinh thần, không thể giam hãm suy tư và cảm xúc, tắt một lời, đời sống tinh thần của con người. Ngược lại, có những hành động được gọi là tự do nhưng thực ra chỉ là cái vỏ bên ngoài che đậy tình trạng nô lệ sâu xa bên trong, nô lệ những đam mê và ham muốn trần tục, nô lệ những tính toán quyền lực và phe nhóm…

Hiểu về sự mù loà và ngục tù như thế, mỗi người – kể cả giám mục và linh mục – bỗng khám phá ra mình cũng có những lúc sống trong tình trạng mù loà và mất tự do. Và cũng hiểu rõ hơn lời Kinh Thánh ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Kitô và chỉ có Chúa Kitô là ánh sáng để trong ánh sáng đó, ta có thể nhìn thấy chân tướng của sự vật và của đời người. Ánh sáng đó là ánh sáng chân lý và chỉ khi sống trong chân lý, ta mới có tự do đích thực. Kinh nghiệm lịch sử nói với ta rằng có những người bị giam giữ trong nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc, và chỉ mong được tự do. Nhưng khi đã được tự do rồi thì chính họ lại dựng lên những nhà tù khác để giam giữ đồng loại của mình và để bảo vệ cái gọi là tự do của mình. Ấy là vì họ mới chỉ được giải thoát khỏi thứ nhà tù vật chất mà chưa được giải thoát khỏi ngục tù của những đam mê và ham muốn quyền lực, của hận thù và ích kỷ. Nelson Mandela đã hiểu ra được điều đó nên khi bước chân ra khỏi nhà tù đã giam giữ ông suốt 30 năm, ông tự nhủ: nếu tôi còn giữ lòng hận thù với những tên cai ngục, thì tôi vẫn còn bị giam giữ, chưa trở thành người tự do thực sự. Và chính điều đó khiến cho mọi người kính nể ông.

Chúa Kitô đến không phải để giải thoát con người khỏi những ngục tù bằng hàng rào kẽm gai nhưng giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ và tha hoá sâu xa nhất, và chúng ta cần đến ơn giải thoát đó. Chúng ta cần đến ơn giải thoát đó ngay giữa lòng một thế giới tưởng chừng rất đỗi tự do. Chúng ta cần đến ánh sáng đó ngay giữa một thời đại phát triển tri thức khoa học đến mức cao nhất. Và giám mục cũng như linh mục là những người được trao cho trách nhiệm loan báo ơn giải thoát đó, trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, sứ mạng “loan báo Tin Mừng cho người nghèo, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị giam cầm được tha, trả tự do cho người bị áp bức”.

Thế nhưng chính ở đây lại xuất hiện một nghịch lý: xét như là con người, bản thân giám mục và linh mục cũng có thể ở trong tình trạng mù loà và bị giam giữ trong những ngục thất vô hình. Vậy làm sao có thể làm cho người khác sáng mắt khi chính mình đang ở trong tình trạng mù loà? Làm sao loan báo tự do khi chính mình đang bị giam trong ngục thất? Henri Nowen đã có lý khi gọi các thừa tác viên trong Giáo Hội là wounded healer, nghĩa là những người có sứ mạng chữa lành cho người khác nhưng chính mình lại đang mang thương tích. Tuy nhiên, chính nghịch lý này thúc đẩy các giám mục và linh mục thi hành sứ vụ trong khiêm tốn và cậy trông vào quyền năng của Thánh Thần. Khiêm tốn vì nhận biết rằng tự thân mình không phải là ánh sáng và chân lý, nhưng chỉ đón nhận ánh sáng và chân lý từ một Đấng khác. Cậy trông vì xác tín rằng mình không thể chu toàn sứ vụ với sức riêng mình nhưng chỉ có thể chu toàn nhờ quyền năng của Thánh Thần. Chính vì thế, nghi thức chính yếu trong việc phong chức giám mục là việc đặt tay và lời nguyện phong chức. Đặt tay chính là cử chỉ nói lên việc thông ban Thánh Thần, cùng với lời cầu nguyện xin Chúa ban Thánh Thần thủ lãnh xuống trên vị tân giám mục.

Hơn ai hết, Đức Tân Giám mục xác tín điều đó, cho nên đã chọn khẩu hiệu cho đời giám mục của mình là “Bước đi trong Thần Khí” (Spiritu ambulate) (Galata 5,16), đồng thời ngài giải thích “bước theo Thần Khí” là “sống trong sự tự do mà Đức Kitô đem lại chứ không quá lệ thuộc vào cách suy nghĩ của người đời… là sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo quan điểm của xác thịt”. Chỉ khi giám mục bước đi trong Thần Khí và hoạt động trong quyền năng của Thánh Thần thì ngài mới có thể chu toàn sứ vụ giám mục hết sức cao cả nhưng cũng rất nặng nề đã được trao phó.

Quyền năng của Thánh Thần chính là quyền năng của tình yêu, là sức mạnh thúc đẩy vị giám mục bước theo Chúa Giêsu Mục Tử, hiến thân trọn vẹn cho đoàn chiên đã được trao phó cho mình. Đây cũng là tâm tình của Đức Tân Giám mục. Nhớ lại khi vừa nghe tin Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản làm giám mục giáo phận Ban Mê Thuột, trang web của HĐGMVN đã lập tức phỏng vấn ngài, và khi được hỏi “Lời đầu tiên Đức Cha muốn gửi đến cộng đồng Dân Chúa Ban Mê Thuột là gì?”, ngài đã trả lời, “Tôi muốn nói với cộng đồng Dân Chúa Ban Mê Thuột rằng tôi thuộc trọn về giáo phận và từ hôm nay, giáo phận Ban Mê Thuột, từng cộng đoàn, từng người Kitô hữu trong giáo phận là chính cuộc sống của tôi.” “Kể từ hôm nay, tôi thuộc trọn về giáo phận.” Nghe thật “mùi mẫn”! Cứ như là chú rể đang nói với cô dâu, “Kể từ nay, anh thuộc trọn về em”!

Mà đúng như thế, lát nữa đây, sau lời nguyện phong chức, vị chủ sự sẽ xỏ nhẫn vào tay của đức tân giám mục cùng với lời nhắn nhủ, “Hãy nhận chiếc nhẫn này như ấn tín đức tin… hãy gìn giữ hiền thê của Chúa là Hội Thánh được vẹn toàn.” Nhẫn cưới đấy! Theo một nghĩa nào đó, lễ phong chức hôm nay chính là lễ cưới, cử hành cuộc hôn nhân thánh thiêng giữa Đức tân giám mục Vinh sơn Nguyễn Văn Bản và Giáo Hội tại Ban Mê Thuột. Thế thì theo truyền thống văn hoá Việt Nam, xin cầu chúc cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc.
+ Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

lundi 4 mai 2009

Tùy bút - Chuyến xe quê

--------------------------------------------------------------------------------
Chính trị - xã hội
quiteyoungguy, X-cafe
Câu chuyện xảy ra đã lâu, và là một chuyện kinh khủng. Theo một nghiên cứu sinh lý thần kinh đăng tải trên tạp chí Sciences khoảng mươi năm trước, thì những chuyện khủng khiếp theo thời gian có xu hướng bị gột bỏ khỏi trí nhớ và những điều vui vẻ ngọt ngào thì thường đọng lại lâu hơn. Âu đó cũng là một cách tự vệ của hệ thần kinh con người, nếu không những ký ức mang mãi đau buồn sẽ bị tổn thường và thải loại như một cách của chọn lọc tự nhiên. Câu chuyện của tôi là một ngoại lệ, trơ lỳ với thời gian, nó vẫn mồn một…

Lần đó tôi cùng hai chú học trò đang làm luận án tốt nghiệp nhằm một trạm y tế trên biên giới Việt-Lào mà xe đò thẳng tiến. Chúng tôi rời thủ phủ Sơn La vào khoảng 4h sáng. Tại bến xe trung tâm, ngoài ánh sáng đỏ đọc của một vài ngọn điện của phòng bán vé, đám chủ xe đốt thêm những chiếc lốp ôtô hỏng. Chúng cháy ngòn ngụt, đen ngòm quyện vào màn sương sớm năng hạt, đen mờ của vùng sơn cước tạo cảm giác âm u ghê người. Chiếc xe chở chúng tôi là một chiếc cũi sắt mang nhãn hiệu Ba Đình, nhằm hướng Mường Hum lao tới. Khung sắt được gắn trên một cái khung máy xe IFA “chuồn” thời Đông Đức xuất sang Việt Nam. Nó sóc ghê gớm và nổ ầm ầm. Nhà xe bắt khách liên tục từ khi rời bến, tới lúc trời sáng rõ thì khoảng hơn sáu chục người đã được lèn lên xe. Đến ngoại vi Sơn La, nhà xe dừng lại, bên kia đường bên chiếc xe U-oat cảnh sát, có hai chú đang chờ. Phụ xe nhanh như cắt lấy giấy tờ xe, mở mớ tiền vé vừa thu xong, nhón hai tờ 50 nghìn kẹp vào trong và chạy sang đường. Trong nháy mắt, hắn quay lại, chiếc xe lại khởi hành. Tôi nhìn về phía cabin, hai bên kính dán chi chít những giấy chứng nhận, bằng khen chấp hành tốt luật giao thông… Nhiều tới mức tôi chợt bật cười khi nghĩ rằng bọn cảnh sát mỗi lần sau khi “làm luật” lại chìa ra cho tay phụ xe cái chứng chỉ và đem về dán trên kính cabin.

Lúc đầu cảm giác ngột ngạt trong xe chưa rõ ràng, nhờ cái lạnh vùng sơn cước nhưng tới 8h sáng thì bắt đầu sặc mùi người. Lúc đó chiếc xe đã tiến sâu 20-30km vào con đường rừng độc đạo. Xe phóng như điên giữa rừng xanh, núi đỏ bạt ngàn nên bớt đi sự oi ả và hôi hám. Bản thân đã quá quen với những kiểu hành trình như vậy nên tôi nháy hai chú sinh viên dựa vào thành xe tranh thủ chợp mắt. Thỉnh thoảng, qua những cái ổ voi, tôi mở mắt liếc ra ngoài. Những mảng màu xanh xen lẫn những đám lở loét của đất đá đang trụt lở do mất rừng trong một ánh sáng nhợt nhạt mùa đông thật là buồn tẻ.

Đột nhiên chiếc xe dừng lại. Chủ xe ra hiệu để mọi người xuống xe vượt đèo. Trước mắt bắt đầu hiện ra những thung lũng sâu hoắm và những rặng núi chạy ngút ngàn về xa. Đó là đất Lào. Quốc bộ được khoảng 300m thì đột nhiên bên rệ rừng hiện ra một đám khoảng 70-80 người với hành lý, gánh gồng xô ra nhập vào đoàn chúng tôi. Chưa kịp hiểu ra sao thì chiếc xe đã rồ gần đến đỉnh dốc. Đám hành khách cũ nhao lên xe chiếm giữ những bao tải, thùng, hòm của mình. Đột nhiên chiếc xe rồ ga như lấy đà, khi đến mé dốc phía bên kia nó dừng hẳn lại. Hai tên phụ xe nhẩy phắt xuống, chúng mở nốt chiếc cửa xe thứ hai và ra hiệu cho đám người kia chạy lại. Chúng nhồi người. Một không khí kinh khủng bắt đầu. Tiếng khóc thét của trẻ con, tiếng chửi bới tanh tưởi của những người đàn bà buôn chuyến bị giẫm đạp hay bị sờ sịt, nắn bóp. Bao tải, ba lô quăng huỳnh huỵch qua cửa sổ và cửa ra vào. Trên nóc xe ầm ầm tiếng hàng hoá và tiếng giẫm đạp của đám khách đàn ông như muốn “đạp chết” đám hành khách bên dưới… Nhưng ghê rợn hơn là sau một hồi nhồi nhét tàn bạo, những người trong xe hầu như quấn chặt vào nhau, đau đớn, rên xiết. Một số đông không còn sức nữa thì im lặng ậm ự cố chống lại sức đè của những kẻ bên cạnh. Trẻ con thì gào thảm thiết. Một số hành khách đặc biệt là nữ thì bắt đầu cảm thấy hoảng loạn vì có vẻ ngoài sức chịu đựng và tưởng tượng. Họ ngửa cổ lên hướng trần xe và gào thét, chửi bới tục tĩu, điên loạn. Qua lời chửi, thì tôi biết đây không phải là lần đầu tiên họ gặp trò đểu này. Chủ nhà xe này có hai chiếc xe, thằng em nó lái một chiếc. Khi tới giữa rừng, gần đỉnh đèo nó bảo là hỏng xe và đuổi mọi người xuống và chạy mất. Thằng anh nó sẽ đến sau khoảng nửa giờ và nhét toàn bộ đám khách lên chiếc cũi này. Ba thần trò tôi bị ép bẹp gí vào lỗ cửa sổ, không thể cựa được nữa. Mồ hôi chảy theo ống quần thành dòng xuống dưới chân. Tôi gào lên, cho chúng tôi xuống. Chẳng ai hưởng ứng và cũng chẳng ai giạt ra cả, vì đâu còn chỗ và họ cũng hết sức mất rồi. Hai thằng phụ nhét những người cuối cùng xong rút trong túi quần hai ổ khóa và khoá ngay cửa xe lại, chẳng để ý gì đến tiếng gào của tôi. Chiếc xe lồng lên. Thân nó vặn vẹo có lẽ vì số người và hành lí trên nóc đè xuống. Trong xe, sau mấy phút chạy hệ cơ của đám người trong xe hết trương lực, tất cả đè chặt vào nhau như mớ lươn. Khi chiếc xe bắt đầu vào vùng đèo dốc thì trời đổ mưa. Vì đầu bị đè gí vào thành cửa sổ nên tôi được mục kích chuyện gì bắt đầu xẩy ra.

Con đường chúng tôi đang đi rất kinh khủng, nhựa đường hình như chỉ còn lác đác đâu đó ở sống đường. Những phần còn lại được vá víu bởi đá cấp phối. Rất nhiều chỗ đường đã lở tới mức nó còn nhỏ hơn khoảng cách giữa hai bánh xe, không hiểu sao mà chiếc xe không lật. Ở Đông Nam Á ít nơi có con đường như thế. Nhìn qua những chỗ lở đó, tôi có cảm giác mình đang chạy trên một bờ tường thẳng đứng. Một vài con trâu dưới đáy bờ vực chỉ nhỏ hơn chiếc đồng hồ trên cổ tay tôi đang ghì chặt vào thành cửa sổ. Trời mưa to hơn, nhiều hòn đá cỡ bàn tay hay bàn chân bên mép vực lở ào xuống dưới mỗi khi bánh chiếc xe chẹt qua. Chúng rơi biến, mất tích ngay. Bên mé ngoài thì mưa lạnh nhưng phía trong vẫn nóng hầm hập. Thằng chủ xe khốn kiếp vẫn cho phóng 50-70km/h. Chiếc xe nghiêng ngả, đám người bên trong rên rỉ. Nhiều người nôn lẫn lên người nhau vì không rạch ra được cửa sổ. Mắt liếc xuống vực, đột nhiên, một cảm giác căm giận ghê gớm, pha chút ghê sợ và kinh tởm dâng lên trong tôi. Tôi chợt nghĩ nếu lát nữa thôi, xe đổ hai thằng học trò ngoài đôi mươi của tôi có làm sao thì tôi có sống cũng đau khổ hết đời… Còn hơn một trăm hành khách kia nữa, mạng sống của họ phỏng có nghĩa gì đây trong tay bọn người này? Còn cái thân tôi, lang thang tứ phương không chết giờ leo lên cái quan tài sắt này chẳng lẽ lại giỗ đầu ngày này năm sau ư! Như có một cơn điên bốc lên man dại, tôi vòng tay qua hông rút con dao găm Mỹ luôn giắt trong người mỗi khi đi công tác xa chọc lên đỉnh đầu và gào lên “Đ. con mẹ thằng chủ xe khốn nạn kia, nếu cái xe này đổ xuống mà tao không chết thì thề rằng bất kể chúng mày còn sống hay là đã chết: Tao sẽ dùng con dao này cắt đứt đầu chúng mày ra khỏi thân để trả thù cho những người ở đây hôm nay”. Có lẽ lúc đó mắt tôi điên loạn ghê gớm nên hành khách xung quanh im bặt, thằng chủ xe và mấy thằng phụ cách tôi khoảng hai “mét người” cũng im không thấy phản ứng gì. Trong mắt những hành khách quanh tôi, tôi thấy có quá nhiều mệt mỏi và cam chịu, có chút gì đó thông cảm đồng tình và ngạc nhiên nữa. Nhưng họ im lặng. Hình như thằng lái có giảm tốc độ, không biết vì tôi gào thét hay vì mưa... Một lúc sau, hành khách gục lẫn vào nhau vì mệt. Cái xe chạy như một nhà mồ im lìm. Nhiều năm đã qua, nhiều khi nghĩ lại tôi không hiểu là vì sao mình có thể chửi bới man rợ, kinh khiếp và điên loạn như vậy trước mặt những học trò của mình. Chúng là những đứa quý mến nên đã xin theo tôi. Sau này khi có dịp gặp lại nhau, các cậu học trò xưa đã sắp xong Ph.D, một cậu bảo lúc ấy em cũng muốn giết nó.

Những tờ báo lá cải ở Việt nam đã tiết kiệm được một chỗ trong ngày hôm sau vì chuyến xe đó đã không lật. Thằng phụ xe mở khóa, đám người đổ ập ra ngoài. Phụ nữ, trẻ con rũ rượi như sắp chết. Ai còn tí mật nào thì nôn hết ra. Đám chó bản ngửi xong cũng ư ử chạy mất. Nắng lúc 1h trưa ở vùng giáp Lào này oi ả khiếp người.

Chiếc xe đỗ ngay ở một cửa quán cơm. Tất cả hành khách những người phải đi tiếp xa hơn đều phải vào đó ăn một cái gì hay uống cốc nước. Các quán khác đều cách đó rất xa ! Chúng tôi chọn một góc sâu trong sân quán ăn, ngẫu nhiên từ vị trí của chúng tôi trông thấy ba thằng nhà xe bước vào. Chủ quán giả lả mời chúng vào gian sảnh giữa, ngay lập tức một mâm đầy bia và thức ăn được bê ra. Tôi thỉnh thoảng quan sát chúng và thực sự muốn đoán biết diễn biến tâm lý của những “tạo vật” này. Kỳ lạ là sự khắc nghiệt của chuyến “hành xác” vừa qua có vẻ không lưu lại chút gì trên nét mặt của bọn người này. Chúng ăn uống hùng hục và bàn tán say xưa về một nhà thổ nào đó trong vùng. Trên khuôn mặt chúng, với những múi thịt đỏ phừng phừng, tất cả là một sự thỏa mãn tuyệt đối ! Tôi có tìm kiếm những nét nhọc nhằn mưu sinh nào đó để cắt nghĩa về cái giá của cuộc đời của những người chủ xe này, tiếc thay ít nhất với ba người bọn họ. Không thấy!

Tôi tự hỏi, chúng mãn nguyện vì sao?

Vì thu được bộn tiền nhàu nhĩ, quyện chặt nước mắt và sinh mạng của đám đông lam lũ kia, để sau khi no say sẽ đến phần dưới rốn?

Hay vì chúng khoái trá với cảm giác quyền lực khi bắt thiên hạ rúc cả vào một cái lồng sắt mà vẫn phải lụy chúng mà không dám ho he?

Đơn giản hơn, hay chúng chỉ nghĩ rằng nếu có chuyện gì chúng sẽ nhẩy thoát ra ngoài vì ngồi trên cabin?

Chẳng lẽ vì những mâm bia tú ụ không mất tiền mà chúng sẵn sàng đưa cả trăm người vào chỗ chết như chơi, chắc gì chúng đã thoát?

Vì tất cả những cái đó hay còn những gì nữa tôi không biết!

Đời cứ trôi qua, cứ mỗi lần vào chợ Bến Thành, vào viện Bạch Mai, hay Chợ Rẫy… khi mà vé gửi xe máy ghi 2 nghìn nhưng bọn trông xe đòi khách 4 ngàn tôi lại nhớ đến chuyến sang Lào. Có lần về qua bộ Đại học để lấy tấm bằng mà mình đã tốt nghiệp bao năm trước thì được trả lời gọn lỏn là chưa có chữ ký, Bộ trưởng đang họp !. Hài hước thay khi một thằng bạn đi cùng đã khéo léo “làm luật” thì nó lấy được tấm bằng có chữ ký của Trần Hồng Quân khi ông này đã vào hẳn ôtô. Tay công chức “mẫn cán” vừa đi còn vừa thổi tấm bằng để cho khô chữ ký. Lúc đó tôi cũng nhớ đến chuyến sang Lào… Tôi chợt hiểu rằng, chuyến xe đó tôi đã không thể quên được vì nó là hình ảnh chính xác thu nhỏ của đất nước của tôi. Chính xác đến từng ngóc ngách của xã hội Việt Nam. Nơi mà cứ 10 người thì có đến 7 người là nông dân hay lao động phổ thông. Họ có một thứ quyền và nghĩa vụ “cao cả” duy nhất đó là đem máu đóng cho chiến tranh và khi hòa bình thì lại đóng những đồng tiền nhàu nhĩ đổi bằng cả sinh mạng và sức khỏe của mình để nuôi ba thằng còn lại. Trong đó có cả tôi!

Có lẽ chừng nào 7 người kia chưa biết đòi lại tiền vé xe khi bị lừa đảo. Kiên quyết không trả thêm 2 nghìn tiền gửi xe thu ngoài giá ghi…thì chừng đó giá trị nhân phẩm còn là thứ xa xỉ trên mảnh đất này, đừng nói gì đến dân chủ và nhân quyền.

Và cũng chừng nào 3 “thằng” còn lại vẫn trực tiếp hay gián tiếp điềm nhiên để mọi thứ như thế tiếp diễn mà sinh tồn hay tư lợi, thì ba thằng này cũng là khốn nạn cả, cho dù cách biểu hiện có khác nhau. Ta mà đối xử với nhau như thế sao hy vọng kiếm chút kính trọng gì trong con mắt ngoại bang đây? Dân tộc như thế sẽ là dân tộc của sự nô lệ.

Nỗi ám ảnh đè nặng khiến tôi muốn tự giải thoát bằng cách “làm khổ” mớ bàn phím vô hồn. Lúc đang gõ trang đầu này cũng đúng vào ngày hàng ngàn bà con công giáo đi bộ từ Thái Hà vào Hà Đông. Tôi hồi hộp nghĩ rằng cuối cùng thì với đức tin vào sự lẽ phải và sự tử tế, họ đã đảm nhiệm sứ mạng đại diện cho 7 người kia ! Tôi tiếp tục từng chữ, từng chữ một, mỗi ngày mấy dòng. Khi đến những dòng cuối cùng, hôm qua có tin là 135 chữ ký phản đối Dự án Boxít đã được gửi đi. Họ là những đại diện tiêu biểu của nhóm 3 “thằng” còn lại, cho cả tôi nữa. Có cái gì đó nhỏ thôi nhưng oà lên trong tôi. Tôi thấy le lói chút đường ra dân tộc mình. Dứt khoát rồi, đó là con đường đúng đắn mà rồi cả dân tộc tôi sẽ đi tới, một dân tộc đau khổ thấm đẫm trong cả những huyền thoại.

samedi 2 mai 2009

Lời bộc bạch của một đảng viên

LỜI BỘC BẠCH CỦA MỘT ĐẢNG VIÊN


Permanent Link

Lâu nay tôi không viết blog, không comment vì tôi sợ. Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết tông tích của những blogger “có vấn đề” để có cách xử lý thích đáng. Tôi thực sự sợ, có lẽ là tôi hèn nhát. Nhưng hôm nay tôi muốn viết, tôi buộc phải viết, tôi không giải thích được tâm trạng của mình lúc này, nhưng tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc. Sự thôi thúc đó đến từ đâu tôi cũng không chắc, nhưng thật tình là tôi vẫn rất run sợ khi post bài này, tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình và mọi người.

Tôi đã gần 50 tuổi, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước, đã được 15 năm tuổi Đảng. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, tôi không đủ can đảm và mạnh mẽ để chấp nhận một cách kiếm sống mới hoàn toàn mà tôi không tự tin với nó. Mà bỏ Đảng thì chỉ còn cách bỏ cơ quan. Đã suy nghĩ rất nhiều cách mưu sinh khác nhưng vẫn không thấy cái nào là được. Các con tôi phải còn vài năm nữa mới có thể tự lo được. Lương hai vợ chồng cộng lại mới hơn chục triệu. Riêng tôi mỗi năm được thêm vài công trình nghiên cứu, chia ra cũng được khoảng 30-40 triệu đồng. Cái này chính là bổng lộc mà cấp trên ban phát vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu, thế là xong. Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn vì đề tài nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài. Còn chưa kể những thứ quyền lợi mua sắm khác. Nói chung là nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, người ta cúng cho mình. Do vậy mà trong nội bộ người ta đấu đá giành giật nhau ghê lắm, vào Đảng cũng chỉ hy vọng lên được chức cao hơn. Nói thật là ngày xưa tôi vào Đảng cũng với động cơ như thế, nhưng không nghĩ rằng như thế chỉ mới là cái bắt buộc sơ đẳng, muốn ngoi lên được đòi hỏi phải nhiều thủ thuật lắm, và phải biết luồn cuối thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. Mà cả 2 cái này tôi đều dỡ, có lúc thấy phải làm nhưng làm cũng không đạt yêu cầu. Chuyên viên như tôi (dù là được xếp vào ngạch cao câp) bây giờ toàn phải nói vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn. Tự an ủi trấn an mình “mưu sinh mà, thôi đành vậy…”

Những người Đảng viên như tôi mình bây giờ chiếm đa số tuyệt đối trong Đảng, đến 95%. Hồi tháng 4 năm ngoái, tôi được đọc một bản nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Dư luận Xã hội, đây là tài liệu chính thức nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ Chính Trị . Qua đó nói rõ rằng Đảng viên bây giờ đều chán nãn và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa, Đảng viên chỉ hy vọng vào sự đổi mới của Đảng. Nhưng bây giờ Đảng đã không còn đổi mới nữa, đang đi vào ngõ cụt. Hầu hết những Đảng viên như tôi bây giờ đều mong muốn một sự thay đổi, nhưng họ lại sợ thay đổi. Lý do quan trọng nhất là họ sợ bị trả thù như lịch sử đã từng xảy ra, như Đảng đã từng làm, họ nghe thấy sự hung hăng và cực đoan của các Việt Kiều qua các lần biểu tình chống đối người trong nước qua làm họ sợ. Rồi kiểu tuyên truyền của Đảng cũng tăng thêm điều đó, nếu bạn là Đảng viên, đi họp sinh hoạt Đảng thì sẽ nghe thấy những lời lẽ cảnh báo rất nặng nề, nào là các thế lực thù địch, nào là sẽ không đội trời chung với Đảng viên, âm mưu diễn biến hòa mình có thể mất nước v.v..

Nhưng cái làm xói mòn niềm tin ở Đảng nhất là tham nhũng và đặc quyền thì Đảng chẳng có một biện pháp hiệu quả nào ngăn chặn, nếu không muốn nói là Đảng phải duy trì nó để sống và để cai trị quan chức. Cơ quan tôi và nhiều nơi khác suốt ngày bàn tán về việc ông Lê Thanh Hải đã chi ra cả trăm tỷ đồng để hối lộ cho những vị ủy viên Bộ Chính Trị vào TpHCM để xem xét việc cách chức ông ta vì dính đến vụ PCI. Giờ ông ta tuyên bố với đám đàn em kinh tài là vững như bàn thạch vì không những thế, Thủ Tướng còn nhận của ông ta mấy triệu đô la nữa. Giờ là lúc ông ta ra sức vơ vét và tạo điều kiện cho các đàn em kinh tài vơ vét để bù lại những gì đã phải chi ra để chạy cho ông ấy. Những chuyện này giờ đây tồn tại như một sự tất yếu, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: theo hiện trạng và thói xấu của xã hội để sống dễ dàng hoặc thay đổi để ko theo nó, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn. Tôi muốn 2 cái sau nhưng nhiều lần đã không vượt qua được chính mình. Hàng này tôi bị buộc phải học và thực hành theo gương và đạo đức HCM nhưng toàn là những gì đạo đức giả và nụy quân tử. Tôi là người luôn kính trọng Chủ Tịch HCM ngay cả khi đã đọc được những mặt trái của Bác. Tôi giữ thái độ đó vì tôi cho rằng Bác là một con người. Nhưng cách mà Đảng đang tuyên truyền về hình ảnh và đạo đức của Bác, bắt mọi người học tấm gương của Bác là cách mà người ta thường làm để ca ngợi những vị giáo của các tôn giáo. Thật đáng buồn là những điều như vậy chẳng những không làm tôn lên hình ảnh của Bác mà ngược lại, vì Bác không có những điều cần thiết của một giáo chủ tôn giáo. Thời buổi bây giờ không còn là những thế kỷ trước, thông tin quá nhiều, nhanh và dễ kiểm chứng thì không thể tạo ra những myth để dẫn dắt lòng tin của mọi người được. Tôn giáo được tạo ra từ các myth vốn là những hiểu biết sai lầm, có thể là dối trá nhưng lại mang ý nghĩa huyền thoại, thần thoại. Người ta đang làm cho hình ảnh Bác ngày càng trở nên méo mó và dối trá.

Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước, ... Không tìm thấy căn cứ khoa học nào, nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh, không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi cũng hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước. Tôi muốn nói với những người muốn mưu sự lớn và thực sự vì đất nước nhân dân, hãy nhắm vào những gì thiết thực nhất vì cuộc sống của đa số người dân, đừng có giương ngọn cờ dân chủ nhân quyền làm mục đích chính, những điều đó với người dân còn xa vời lắm. Chính quyền hiện này dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ nhưng thực ra họ rất mong muốn những những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy vì chúng chẳng thể nào thu hút quần chúng trong vài chục năm nữa. Họ ra vẻ cái này là gót chân Achile của Đảng nên phản ứng rất dữ dội, làm cho những người đấu tranh cứ tưởng thật là mình đã nhắm vào đúng tử huyệt của đối thủ và cứ thế hút đầu vào đá. Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến hết tất cả một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu này, nhấn mạnh nó, giương nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng thì mới có thể tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi cái hiện nay được. Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, không lao vào những khẩu hiệu dân chủ nhân quyền mà nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó.

Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm đừng hỏi ý kiến tôi. Mà cũng mong các bạn hãy làm điều đó vì có thể một ngày nào đó, tôi không đủ sự can đảm, không vượt qua nổi sự hèn nhát nên sẽ xóa hẳn cái blog này. Tôi đã từng nghe cánh an ninh nói rằng sẽ dựa vào quan hệ của con rễ Thủ Tướng, là Việt Kiều trong giới tài phiệt, can thiệp với Yahoo để “lôi ra ánh sáng” kẻ nào là Change We Need để trị tội vì đã “vu khống” thanh danh của gia đình “phò mà”. Chuyện ấy cũng vài tháng nay rồi nhưng vẫn thấy Change tiếp tục viết bài, có thể là họ không làm được, và cũng có thể là chưa làm được. Nếu một ngày nào đó mọi người thấy blog này biến mắt hẳn thì xin hãy hiểu và thông cảm cho tôi. Tôi rất biết ơn ai đó copy bài này về blog của mình để những gì tôi viết còn lưu lại được.

Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít, những người này đều không lên cao được. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát, thượng đội hạ đạp. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới hoặc những người không có chút quyền gì. Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi bọn người này là những kẻ trốn chạy đầu tiên hoặc quay ngoắc tức thì theo lực lượng mới. Bọn chúng đa số (tôi là thiểu số) đều là những kẻ giàu có, giờ thì lắm tiền nhiều của, sợ chết và sẵn sàng trở thành kẻ phản bội cho người khác sai bảo nếu được đảm bảo rằng không làm gì bọn chúng.

Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắc và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Chính quyền nữa, cái này ngoài khả năng của họ rồi. Nó tuỳ thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi. Còn thay đổi như thế nào thì lại tuỳ thuộc vào cái lực lượng này có muốn làm điều tốt cho người dân hay không. Thật là khủng khiếp nếu đất nước này tránh vỏ dư gặp vỏ dừa.

Hãy tha thứ cho tôi nêu ai đó vô tình bị xúc phạm từ những điều tôi viết, nhưng tôi vẫn tin những người đó rất ít, đếm trên đầu ngón tay. Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Chúc mọi người vui khỏe và an toàn, chúc Việt Nam thay đổi tốt đẹp.

Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào Đảng.


--------------------------------------------------------------------------------