mercredi 24 juin 2009

Chuyện một người mù sáng suốt

Tuesday, June 23, 2009










Ngô Nhân Dụng





Hiện nay, người lịch sự không dùng chữ “người mù” mà phải viết là “người khiếm thị.” Sửa lối nói, vì những người mắt sáng muốn tỏ lòng kính trọng đối với những đồng loại không may mắn, mất khả năng nhìn bằng đôi mắt.

Nhưng xin quý vị cho phép chúng tôi dùng tên gọi khiếm nhã cũ, khi kể lại một câu “chuyện người mù” thời xưa, thời xã hội chưa tiến bộ như bây giờ. Thời đó người ta chỉ gọi người không trông thấy được là “người mù.” Có người nói như vậy còn tỏ vẻ khinh bỉ, rẻ rúng những “người mù;” mà không thấy áy náy, không ngượng ngùng nữa. Ngày nay xã hội văn minh hơn, chúng ta tránh những tiếng nói hạ phẩm giá người khác, nhất là những người không được may mắn như mình. Chúng ta chỉ dùng những chữ như “điếc” hay “mù” khi nói đến khuyết tật, nhưng khi nói về con người thì dùng những từ nhẹ nhàng, tôn kính hơn. Phải nói loài người bây giờ đã tiến bộ hơn trong cách đối xử với nhau, và chúng ta nên hãnh diện về sự tiến bộ đó.

Có tác giả kể chuyện một người mù, tôi đọc thời niên thiếu, bây giờ đã quên tên người viết, tôi đã lục tìm bằng các phương tiện rất mới nhưng vẫn không tìm ra tung tích. (Quý vị có thấy nguyên bản ở đâu làm ơn chỉ cho chúng tôi được đọc lại.)

Câu chuyện đó để lại một ấn tượng rất mạnh cho nên tới giờ tôi vẫn chưa quên. Vì đó là chuyện khích động giai cấp cần lao hãy vùng lên tranh đấu đòi quyền lợi cho mình.

Chuyện kể về một chuyến xe lửa chở thợ khai mỏ trên đường đi làm, rồi từ hầm mỏ trở về nhà. Những người lao động này phải ra đi từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc; và lúc họ trên đường trở về nhà với thân thể mệt nhoài thì trời cũng đã tối đen. Nhưng trong toa xe lửa không có đèn, không bao giờ có đèn. Và mọi người ai cũng chấp nhận như thế, coi đó là một điều tự nhiên. Khi tìm được một chỗ ngồi hay chỗ đứng trong toa xe là họ cũng bắt đầu ngủ gật hay là ngủ gục, còn ai quan tâm đến đèn đóm làm gì?

Cho đến một hôm, có một người mù cũng đáp chuyến xe lửa tối đen đó, chen chúc giữa đám phu mỏ. Bỗng anh mù đánh rớt một vật gì đó, một đồng xu chẳng hạn, và anh ta cúi xuống rờ mò tìm kiếm. Tìm mãi không ra, anh ta nói nhờ những người chung quanh kiếm giùm. Không ai tìm ra. Anh mù than phiền rằng mọi người không tử tế, có đôi mắt sáng mà không chịu tìm giúp một người mù như anh. Mọi người bèn giải thích là trong toa xe lửa tối đen, không ai thấy gì cả. Anh mù ngạc nhiên: Trong xe không có đèn à? Tại sao họ không thắp đèn? Sao vô lý vậy? Các anh để cho bọn chủ nhân họ bóc lột, họ bạc đãi các anh như vậy mãi mà cứ cam chịu hay sao?

Cuối cùng, mọi người đồng ý rằng các công nhân có quyền đòi hỏi mỗi toa xe phải thắp ít nhất một ngọn đèn bão, chẳng tốn kém bao nhiêu nhưng sẽ sống dễ chịu hơn. Họ cử người đại diện đến xin các ông chủ, bị các ông chủ nhân từ chối. Họ tổ chức đình công, nhiều cuộc tranh chấp diễn ra. Trước sự đoàn kết của các công nhân, các chủ nhân phải nhượng bộ.

Câu chuyện thật lý thú, chuyện một người mù chỉ cho những người mắt sáng thấy họ có quyền được sống trong ánh sáng. Nói theo lối các anh chị em Mác xít, người mù này “giác ngộ quyền lợi” trước những người sáng mắt.

Trong xã hội nào cũng vậy, người ta sống trong một nề nếp quen rồi, không biết rằng đáng lẽ mình không nên sống như thế, hoặc không bắt buộc phải sống như thế. Thí dụ có một bọn trẻ không được giáo dục, sống chung mà không có thói quen nói năng lễ độ với nhau. Ðến khi gặp một người biết nói năng, thưa gửi với các em đó một cách lễ độ, các em thấy là hay, từ đó bắt chước. Một thời gian sau, mọi người đều biết thưa gửi, biết xin lỗi, biết cảm ơn lẫn nhau, cả xã hội sống lịch sự hơn. Từ đó, nghe ai nói năng cục cằn thô lỗ thì mọi người đều cảm thấy khó chịu.

Có những xã hội người ta coi việc xin xỏ, lạy lục, hối lộ quan chức nhà nước là chuyện bình thường. Hoặc coi những ông lớn, những ông có chức có quyền tất nhiên phải được hưởng mọi ưu tiên hơn mình, đó là chuyện tự nhiên. Coi báo, đài phải tuân theo mệnh lệnh nhà nước cũng là chuyện tự nhiên, trời sinh ra như vậy.

Hãy làm thí nghiệm cho những người này được thử sống trong một xã hội tự do. Cho họ thấy ở một nước dân chủ người dân đến công sở không phải lo hối lộ, khi chờ đợi thì một quan chức nhà nước cũng phải xếp hàng như mình, ai đến trước đứng hàng trước, đến sau đứng sau. Và thấy người ta được tự do sử dụng các phương tiện báo chí, phát biểu ý kiến riêng mà không sợ ai hết. Cho sống như vậy một thời gian, họ sẽ quen đi, khi trở về xứ sở cũ họ sẽ thấy lối sống trong sợ sệt, lối sống bất bình đẳng và thiếu tự do là không thể chấp nhận được. Khi đó những người này có thể trở thành “những anh mù sáng suốt” chỉ cho mọi người quyền được sống trong ánh sáng.

Trong mọi xã hội còn chậm tiến, cần phải có những người “sáng suốt hơn” như anh mù trong câu chuyện ngụ ngôn trên, đứng ra bảo cho người chung quanh là cái lối họ sống như cũ làm họ mất nhân phẩm! Con người không thể sống như vậy! Cần phải thay đổi! Rồi phải có những người có can đảm đứng lên đòi thay đổi, quyết tâm đòi thay đổi, không sợ khó, không sợ chết. Những người thấy trước, biết trước người khác; cùng những người can đảm tranh đấu cho người khác được hưởng những quyền lợi đáng được hưởng, chúng ta rất cần.

Ngay trong các xã hội tiến bộ rồi người ta cũng cần những “anh mù” như trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây, những người nhìn rõ các vấn đề chung để cùng tìm cách giải quyết. Trong các xã hội tự do dân chủ thì những người đi trước đó có quyền kêu gọi các đồng loại của mình, nếu có ý kiến khác nhau thì sẽ có dịp tranh luận.

Còn trong những xã hội độc tài đảng trị thì họ cấm bàn, vì giai cấp cầm quyền chỉ muốn ai ở đâu ở đó, trên bảo dưới nghe. Các chính quyền độc tài coi dân như trẻ con, họ là cha mẹ, cha mẹ cho con cái gì thì được cái đó, không được đòi hỏi.

Chúng tôi nhớ lại câu chuyện về người mù trên đây vì mới đọc một bài báo với câu hỏi là “Dân Chủ cho ai?” được trích đăng lại trên nhật báo Người Việt gần đây. Ðại ý bài này nói rằng đa số đồng bào chúng ta sống ở Việt Nam không cần sống trong chế độ tự do dân chủ; do đó tranh đấu Dân Chủ là làm một việc không cần thiết.

Cái ông, bà nào viết bài đó rõ ràng là người dễ tính. Ông/bà ta coi 80 triệu con người sống thỏa mãn với chế độ độc tài chuyên chế của đảng Cộng Sản; cứ tiếp tục sống trong cảnh nghèo khó, bất công và mất tự do như vậy mà không người Việt nào cảm thấy hổ thẹn với lân bang.

Xã hội nào cũng có những người dễ tính như vậy, nhất là những người đang được hưởng thụ nhờ cơ cấu xã hội đó.

Nhưng thế nào cũng cần phải có những “người mù sáng suốt” hơn người khác, như trong câu chuyện trên đây. Nếu không thì người chung quanh cứ chịu sống trong cảnh tăm tối mãi mà không biết là mình thiếu thốn, là mình bị khinh rẻ, bị sỉ nhục.

Vậy thì từ mấy thế kỷ nay, cả thế giới loài người đã tranh đấu đòi tự do dân chủ, họ đòi Dân Chủ cho ai nhỉ? Cho tất cả chúng ta, cho cả ông hay bà nào viết bài báo đặt câu hỏi đó. Sống tự do là lối sống tôn trọng và bảo vệ giá trị con người, tất cả mọi người. Ðó là sự tiến bộ của nhân loại, phải mất hàng trăm năm, bao nhiêu người đổ máu mới đạt được sự tiến bộ đó. Từ nô lệ bước tới tự do, văn minh nhân loại được xây dựng dần dần như vậy. Cũng giống như lối nói năng lễ phép, tránh không dùng những chữ “người mù,” hay “người điếc” mà sử dụng các tiếng thanh nhã và kính cẩn hơn. Ðó cũng là một nếp sống văn minh mọi người cùng bảo nhau phải sống. Nói năng lễ độ là niềm hãnh diện của loài người, cũng như mọi người hãnh diện khi được sống tự do. Chúng ta chọn sống theo lối đẹp đẽ văn minh; không tiếp tục sống trong bất công, sợ hãi, mất phẩm giá người khác và của mình.

samedi 20 juin 2009

Đấu tranh trong chế độ hay trên chế độ

Friday, June 19, 2009










Ngô Nhân Dụng


Trong mọi cuộc đấu tranh với các chế độ độc tài áp bức, những người tranh đấu thường chia làm hai khuynh hướng: Hoặc họ đấu tranh trong khuôn khổ chế độ hiện tại để cải thiện dần dần lề lối cai trị; hoặc họ đấu tranh trên nền tảng chế độ đó buộc nó phải đổi từ căn bản. Lằn ranh giữa hai chủ trương đó có khi không rõ rệt, nhưng cũng đủ để phân biệt khiến người ta có thể gắn cho mỗi nhóm một nhãn hiệu khác nhau.

Trong vụ Luật Sư Lê Công Ðịnh bị bắt rồi chúng ta thấy ông đã bước qua lằn ranh giữa hai chủ trương này. Từ một người vốn chấp nhận đấu tranh trong giới hạn của hệ thống cai trị hiện hành, ông đã vượt ra bên ngoài để đấu tranh trên chính chế độ đó - nếu những tin tức do giới chức công an Cộng Sản đưa ra là xác thực.

Từ căn bản, các luật sư đang hành nghề ở nước nào cũng hoạt động trong giới hạn của chế độ mà họ đang sống. Công việc của các luật sư ở bất cứ nơi nào cũng là sử dụng hệ thống luật pháp đang có sẵn chứ không phải là thay đổi các thứ luật lệ đó. Thay đổi luật lệ là công việc của các người đấu tranh chính trị, và của các đại biểu Quốc Hội, khi Quốc Hội đó có thực quyền. Các luật sư có thể biện hộ chứng tỏ rằng một hành động nào đó không vi phạm các điều luật đang thi hành trong xã hội; nhưng cũng có thể chứng minh rằng một điều luật nào đó là trái ngược với hiến pháp, tức là đạo luật cao nhất của một quốc gia. Trong cả hai trường hợp, người luật sư vẫn hành động bên trong khuôn khổ của chế độ.

Trước đây ông Lê Công Ðịnh đã đóng vai trò đó một cách xuất sắc, khi ông đứng ra biện hộ cho hai luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân ở tòa phúc thẩm mấy năm trước đây. Hai vị luật sư trẻ này cũng là những người chấp nhận tranh đấu bên trong khuôn khổ của chế độ. Và họ bị kết tội theo điều số 88 trong bộ luật hình sự mà ông Lê Công Ðịnh sắp bị truy tố vi phạm điều này.

Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân đã bị gán tội “tuyên truyền chống nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,” ghi trong điều 88. Nhưng bộ luật này không định nghĩa thế nào là “chống nhà nước...” cho nên tòa dưới đã nêu tội của họ là “Hạ thấp vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản, bôi nhọ Hồ Chủ Tịch và các vị lãnh đạo cao cấp của đảng...” Với hai lý do đó, họ kết tội hai người “chống nhà nước xã hội chủ nghĩa...” theo lời lẽ viết trong đạo luật.

Tại tòa phúc thẩm năm đó, Lê Công Ðịnh đặt vấn đề: Không thể “đồng hóa đảng Cộng Sản Việt Nam với nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nếu không sẽ trái với hiến pháp.” Ðây là lần đầu tiên một luật gia ở trong nước Việt Nam đã nêu lên sự kiện này. Nhưng khi dùng các lý luận này Lê Công Ðịnh vẫn đứng trong vòng giới hạn của luật pháp mà chế độ đang sử dụng.

Tòa án Cộng Sản khi đó buộc tội hai luật sư Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân vì họ đã “tiếp xúc và trao đổi thông tin về dân chủ và nhân quyền; “ và vì họ đã “Ủng hộ đa nguyên, đa đảng, kêu gọi thay thế đảng Cộng Sản.”

Ông Lê Công Ðịnh đã mỉa mai, “Bàn đến dân chủ và nhân quyền” không thể được coi là “chống nhà nước xã hội chủ nghĩa.” Trừ một trường hợp, ông nói tiếp, “trừ phi nhà nước đó chống lại dân chủ và nhân quyền!”

Ông Lê Công Ðịnh nhấn mạnh rằng các bị cáo chỉ làm công việc phê phán và lên án các hành động vi phạm quyền công dân và nhân quyền, những thứ quyền được ghi trong hiến pháp. Các hành động đó “không thể bị xem là ‘chống nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.’” Trái lại, ông tố cáo, “chỉ những hành động vi phạm quyền công dân và nhân quyền mới là chống hiến pháp;” và do đó, cũng “chống nhà nước.” Một lần nữa, gậy ông lại đập lưng ông! Trong vai trò luật sư biện hộ cho Nguyễn Văn Ðài và Lê Thị Công Nhân, có thể nói Lê Công Ðịnh đã nói lên những sự thật, dùng những lý luận mà chế độ Cộng Sản độc tài không thể cãi được. Cuối cùng trong vụ án đó đảng Cộng Sản chỉ còn cách áp dụng khí cụ riêng của họ, là áp chế, bất chấp lẽ phải, bất chấp lý luận.

Nhưng Lê Công Ðịnh vẫn lên tiếng trong vòng kẽm gai mà chế độ cho phép, đóng vai tranh đấu từ bên trong một cách xuất sắc. Những lời nói của ông được giới thanh niên ở trong nước và bên ngoài nghe và hưởng ứng. Khi đọc bản tin cho biết Luật Sư Lê Công Ðịnh đã chấp nhận những lời tố cáo của công an nói rằng ông đã tiếp xúc và hoạt động chung với những tổ chức tranh đấu dân chủ ở bên ngoài đang vận động lật đổ chế độ Cộng Sản ở Việt Nam, nhiều người có thể nghi ngờ. Vì trong vai trò tranh đấu trong lòng chế độ, ông đã đạt những kết quả đáng kể. Và ông vẫn được an toàn, tiếp tục cuộc sống của một người thuộc giới trung lưu khá giả trong cái xã hội Việt Nam rất trọng kim tiền hiện nay. Ông lại được xã hội chung quanh công nhận khả năng cống hiến của mình trong việc đòi hỏi cải thiện xã hội. Trong một bài đăng trên báo Tuổi Trẻ vào Tháng Hai năm 2006, ông Nguyễn Văn Tiến Hùng đã giới thiệu Lê Công Ðịnh như một luật sư có hiểu biết sâu xa về luật pháp, đã du học ở Mỹ, ở Pháp và có tham vọng cải thiện hệ thống phát luật Việt Nam. Ông muốn hệ thống tư pháp không chỉ dựa trên các đạo luật thành văn theo lối dân luật Napoleon mà còn phải sử dụng các án lệ theo truyền thống Anglo-Saxon. Và “Anh truy đến cùng nguyên nhân tại sao luật chưa ra đời đã trở nên lạc hậu.” Những tham vọng đó có thể được thực hiện ngay trong lòng chế độ, một cách bền bỉ có thể đem lại ích lợi chung cho xã hội chung quanh.

Nhưng nếu những lời tố cáo và xác nhận trên đúng sự thật, thì ông Lê Công Ðịnh đã chấp nhận thay đổi vai trò và tính chất cuộc tranh đấu của mình. Không còn đứng bên trong chế độ mà lên tiếng đòi cải thiện dần dần nữa. Bắt đầu vận động thay đổi chế độ đó từ căn bản. Nếu những điều công an trưng ra là sự thật, và nếu quả thật ông Lê Công Ðịnh không thể chối cãi được đã xác nhận mình làm những việc đó, thì cả hai việc ông làm, là dự tính thành lập một đảng chính trị mới, và soạn thảo dự án hiến pháp mới, đều nhắm thay đổi chế độ Cộng Sản hiện nay bằng một chế độ tự do dân chủ hơn. Ðó là đấu tranh trên chế độ.

Nếu một người ở tuổi ngoài 40, đã có vợ, có con, có trách nhiệm với gia đình, mà chấp nhận bước qua cầu, sang bên kia “sông Rubicon” đi vào một con đường nhiều rủi ro và nguy hiểm, thì điều đó có ý nghĩa như thế nào?

Có thể người đó đã nhận thấy phương pháp đấu tranh trong lòng chế độ hoàn toàn vô ích. Phải thay đổi toàn diện, thay đổi tận gốc rễ.

Chúng ta không biết sự thật ra sao, có những thao thức, biến chuyển như thế nào trong lòng người luật sư trẻ đó. Nhưng chúng ta có thể biết một điều là tâm lý của người dân xã hội Việt Nam đang trải qua một giai đoạn sôi động, không còn dè dặt như trước nữa. Ðặc biệt là trong giới thanh niên, trong giới kinh doanh và các nhà trí thức.

Một người bạn trẻ của tôi, ngoài 40 tuổi, mỗi năm đi về Việt Nam ba bốn lần vì công việc làm ăn, mới từ trong nước ra tuần trước, đã cho tôi biết cảm giác như vậy. Xưa nay anh không để ý tới chính trị, và mỗi lần về nước cũng không nghe những người quen biết và làm việc với anh bàn chuyện chính trị. Nhưng lần vừa rồi thì khác. Trong không khí có những dấu hiệu bất thường. Người ta bàn chuyện chính trị, phê phán chính quyền một cách công khai và sôi nổi, khác hẳn những năm trước. Vụ Bô Xít. Vụ Biển Ðông. Chính sách kinh tế bất lực và tham ô. Từ PMU 18 đến Huỳnh Ngọc Sỹ. Từ Nông Ðức Mạnh đến Nguyễn Tấn Dũng sang Tầu. Ðặc biệt, những nhà kinh doanh từ miền Bắc vào Nam, trước đây vẫn lảng tránh hoặc có thái độ bênh vực chế độ một cách nhẹ nhàng, theo lối “không vạch áo cho người xem lưng.” Họ đã thay đổi. Chính họ gợi ra những sự kiện, những đề tài để công kích chế độ, hình như để chứng tỏ họ không nằm trong nhóm chỉ huy con tầu đang thủng đáy sắp chìm, là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Một người bạn của Lê Công Ðịnh đã bị bắt tháng trước là Trần Huỳnh Duy Thức, một doanh nhân thành đạt trong ngành truyền thông. Ông cũng bị buộc tội hợp tác với Lê Công Ðịnh chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam, mà theo nhiều người quan sát ở trong nước thì Trần Huỳnh Duy Thức là một người vẫn đứng đằng sau Lê Công Ðịnh trong thời gian qua. Họ cũng tham dự trong một khuynh hướng của chính các đảng viên Cộng Sản muốn thay đổi đảng của họ bằng cách vận động từ bên ngoài đảng. Khi Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản quyết định bắt và truy tố hai người, mục tiêu sau cùng họ muốn là trừ khử khuynh hướng “nổi loạn” ngay trong nội bộ. Họ có tiêu diệt được mầm mống nổi loạn này hay không, chúng ta chờ rồi sẽ thấy.

Cho nên hành động của cá nhân các ông Lê Công Ðịnh và Trần Huỳnh Duy Thức không quan trọng bằng một hiện tượng xã hội lớn hơn, trong đó hai người này có mặt. Ðó là một phong trào đang dâng lên muốn thay đổi toàn diện chế độ chính trị ở Việt Nam. Một nhà kinh doanh thành công trong hệ thống kinh tế của chế độ, và một luật sư thành công trong khi hoạt động trong vòng luật lệ của chế độ đó, cả hai đã phải bước qua ranh giới giữa hai phương pháp đấu tranh. Họ không còn đứng bên trong đòi thay đổi từ từ, mà chấp nhận đứng ra ngoài để tấn công ngay trên những nền tảng của chế độ đã nuôi dưỡng sự thành công của họ.

Ðây không còn là những hành động cá nhân nữa. Cả xã hội Việt Nam đang thay đổi. Nhiều người khác, giới sinh viên, giới trí thức, cả những người trung lưu đang được quyền hưởng thụ, họ đang băn khoăn không biết nên tiếp tục đứng bên trong hay phải bước ra ngoài vòng cương tỏa. Nỗi băn khoăn này sẽ đưa tới những lựa chọn và hành động trong thời gian sắp tới. Chúng ta đã biết trường hợp một đảng viên Cộng Sản là nhạc sĩ Tô Hải. Ông cùng các đảng viên khác đã thấy những ý muốn thay đổi đảng của mình từ bên trong là vô ích, là tuyệt vọng. Tô Hải can đảm viết cuốn hồi ký tự lên án mình, nhưng cũng là lên án cả chế độ đã nuôi dưỡng ông. Tại sao?

Có một lý do thúc đẩy những người còn lương tâm phải bước qua làn ranh giới, là lòng kinh tởm mạnh hơn đức kiên nhẫn chịu đựng. Mọi người trong xã hội đang phải “bịt mũi” chấp nhận sống dưới cái chế độ thối nát đó, mỗi người có thể tự biện hộ với những lý do lớn hay nhỏ về sự chịu đựng này. Nhưng sẽ đến lúc một số người không thể bịt mũi mãi được nữa, và họ càng ngày càng đông. Cảnh thối tha ở chung quanh đã hiển nhiên và trâng tráo tới mức người ta chỉ còn thái độ khinh bỉ và kinh tởm. Ðó là lúc những người tranh đấu bên trong chế độ cũng phải đổi chiến lược. Từ nay phải tìm cách thay đổi chế độ đó từ gốc rễ.

Chú thích: Rubicon là dòng sông mà Julius Cesar đã bước qua, khi quyết định đem quân trở từ xứ Gaule về La Mã dẹp yên những rối loạn trong Thượng Viện, thay vì tiếp tục chờ ở bên ngoài (năm 49 trước Công Nguyên). Khi đã qua sông, không quay lại được nữa.

vendredi 12 juin 2009

Súc vật hoá con người

Ngô Nhân Dụng





Trong Hồi Ký của Một Thằng Hèn, nhạc sĩ Tô Hải tố cáo “Âm mưu súc vật hóa con người được tiến hành rất có tổ chức” của đảng Cộng Sản ở Việt Nam, “là tội lớn thứ hai sau tội giết người.” Vì nó biến đổi hệ thống giá trị của nhiều thế hệ người Việt khiến cho bây giờ họ thấy “không có gì quý hơn đồng tiền!”. (trang 398)

Vì không được cơ hội bảo vệ phẩm giá con người cho nên, Tô Hải kể, “Cha con, vợ chồng sẵn sàng kiện cáo, tranh cướp, thậm chí đâm chém nhau” chỉ vì muốn giành nhau một mối lợi. Ông nêu thí dụ một nhà thơ nổi tiếng đã kiện con trai của mình để giành lại một mảnh vườn trước căn phòng của một thi sĩ bạn thân đã chết.

Nền tảng đạo đức của nước ta bắt đầu bị phá từ thời cải cách ruộng đất, bây giờ thuật lại nhạc sĩ vẫn còn thấy xấu hổ. Phương pháp đấu tố của Mao Trạch Ðông không chỉ nhắm giết người mà còn có mục đích hủy hoại những quy tắc đạo lý cổ truyền: “Thử hỏi trước kia ở đất nước ta có thời đại nào làng xóm giết nhau, cha bị con đấu tố, vợ chỉ mặt chồng giữa sân đình gọi là ‘thằng kia!’ rồi đưa ra đầu làng bắn bỏ hay không?”( trang 235)

Vì sợ hãi guồng máy độc tài cho nên, Tô Hải thú nhận, “Tất cả chúng tôi đều sống giả, sống bằng cái đầu và trái tim của người khác... chính tôi, một nạn nhân đồng thời cũng là một tội đồ... là kẻ cố bám lấy cuộc sống, cố nuốt mọi cục phân thối hoắc... mà vẫn làm ra vẻ tươi cười.” (235)

Nhà văn Solzhenitsyn từng nhận xét là một chế độ độc tài cần hai thứ khí cụ: áp bức và dối trá, có cái này phải có cái kia, thiếu một cái không được. Người nào đã chọn cai trị dân theo lối độc tài thì hệ quả tất nhiên là người đó phải dùng cả hai khí cụ: Phải khủng bố, áp bức dân. Và phải dựng lên một bộ máy dối trá, che đậy, lừa bịp cả thế giới.

Ðấu tố, giết người, là nhưng phương cách tiêu diệt những thành phần khó kiểm soát, đồng thời cũng đe dọa những người khác. Nếu không dụ dỗ được thì ép buộc các văn nghệ sĩ phải “làm ra vẻ tươi cười” đóng vai trò “cung văn,” “minh họa,” đó là guồng máy dối trá giúp bảo vệ chế độ.

Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam không sáng chế ra những phương pháp cai trị đó. Chính họ đã học được từ các bậc thầy Mao Trạch Ðông, Stalin và Lenin. Người học trò giỏi của những “đại sư quốc tế” này là Hồ Chí Minh. Ai cũng biết Hồ Chí Minh vẫn đề cao Stalin và Mao Trạch Ðông như các vị thánh sống. Ông Hồ nói, theo Nguyễn Văn Trấn kể lại, “Bác cháu chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nào nhầm được.” Ông cũng nói, “Những điều gì cần viết đã có Chủ Tịch Mao Trạch Ðông viết cả rồi, tôi không cần viết sách nữa.”

Nhưng các bài học quan trọng nhất giúp Hồ Chí Minh thành công trong việc chiếm chính quyền ở nước ta không phải do sách vở dạy mà do kinh nghiệm sống của chính ông. Ông Hồ đã có mặt ở Liên Bang Xô Viết trong những năm chế độ này thi hành các chính sách đàn áp tàn bạo cũng như những vụ xử án dối trá chưa bao giờ thấy trong lịch sử.

Bài học lớn mà Hồ Chí Minh học được ở cả Liên Xô lẫn Trung Quốc là trong lúc thời thế tao loạn thì kẻ nào tàn ác nhất cuối cùng sẽ thắng. Bá thuật sẽ thắng vương đạo. Ðạo đức, nhân nghĩa, chỉ để nói, để tuyên truyền mà thôi; nếu lấy nhân nghĩa ra dùng thì cũng chỉ nên dùng trong thời bình. Còn trong thời loạn, ai dám giết nhiều người kẻ đó sẽ làm chúa thiên hạ. Hồ Chí Minh đã là một Tào Tháo của nước Việt Nam, lại được Stalin đào luyện những bá thuật quốc tế mới do Lenin truyền dạy nữa.

Nhóm Bôn Sơ Vích và Lenin đã thắng trong cuộc nội chiến Nga 1917 - 1920 vì họ dám giết người tàn bạo nhất so với các phe khác. Chế độ Cộng Sản mà Lenin dựng lên đã tồn tại được cũng vì sau khi cướp quyền được rồi họ vẫn dám giết hết những người có ý kiến chống đối. Nếu quá tay giết cả những người không chống mình cũng không sao! Ðó là quy tắc luân lý mới của Lenin nhưng cũng là một quy tắc xử sự của Tào Tháo: Thà mình phụ người còn hơn người phụ mình! Stalin theo đúng chính sách đó để củng cố quyền hành cá nhân, bằng cách tiêu diệt ngay các đồng chí cũ có thể cạnh tranh với mình. Hồ Chí Minh có mặt ở nước Nga trong những năm khủng bố nặng nề đó, ông đã nhập tâm. Và sau này ông lại học được thêm các phương pháp của Mao Trạch Ðông, ông đủ thông minh để thấy Mao còn hay hơn Xít vì thường giết người mà không cần dùng đến đội hành quyết. Ðem người ta ra đấu tố, bỏ đói cho tới chết; dùng “quần chúng nhân dân” làm quan tòa buộc tội, xử tử hình; cùng lúc đó dùng đội ngũ văn công ca ngợi tội ác của mình; đó là những phương pháp Mao Trạch Ðông đã dùng rồi được Hồ Chí Minh áp dụng một cách trung thành.

Người ta thường chú ý đến những tội ác của Stalin mà không chú ý đến thời Lenin sống ngắn ngủi. Trong cuốn sử The War of the World, Niall Ferguson chép một bức thư mà Lenin gửi cho các người lãnh đạo Bôn Sơ Vích ở Penza, ngày 11 Tháng Tám năm 1918, ra lệnh họ phải giết những “phú nông” (kulak) để thực hiện việc cướp thóc lúa nuôi Hồng quân,

“Các đồng chí! Bọn kulak nổi lên phải bị đè bẹp không thương xót... Phải hành động để làm gương cho chúng thấy. 1) Treo cổ (tôi nhấn mạnh, treo cổ để mọi người phải trông thấy) ít nhất 100 tên kulak hút máu người. 2) Công bố tên họ chúng nó. 3) Lấy hết thóc lúa của chúng nó... Phải làm sao để trong vòng 100 dặm chung quanh mọi người đều phải thấy, phải biết chuyện, phải run sợ, và kêu lên với nhau: Họ đang đi giết bọn kulak và họ sẽ đi giết hết bọn kulak...

Tái Bút: “Hãy dùng các đồng chí cứng rắn nhất!” (trang 150)

Không lãnh tụ nào trong cuộc nội chiến ở Nga dám ra lệnh cho phe mình giết nhiều người như đám Bôn Sơ Vích dám làm. Ferguson tính là không kể các người chết vì chiến tranh, “trong những năm từ 1918 đến 1920 có 300,000 vụ hành quyết vì lý do chính trị. Không phải chỉ có những người thuộc các nhóm đối nghịch bị giết mà cả những người Bôn Sơ Vích cũ dám cả gan phản đối đám lãnh tụ mới.” (trang 152)

Dưới thời Lenin, trại lao động tập trung đầu tiên đã được lập ra, đến năm 1920 đã có mấy trăm trại tập trung, làm mẫu cho những trại giam sau này mà Stalin và Hitler bắt chước. Chính tổ chức mật vụ (Cheka) nảy ra sáng kiến “cải tạo” các tù nhân bằng lao động khổ sai. Trại Solovetsky lập ra năm 1923, sang năm 1924 được chính thức gọi là trại cải tạo. Với sáng kiến của Naftaly Aronovich Frenkel, một tù nhân người gốc Do Thái được tuyển để đóng vai cai tù, trại này có chính sách cho những người tù khỏe mạnh ăn no, còn người yếu cho chết đói không sao. Theo Ferguson thì dưới thời Stalin có ít nhất 18 triệu người, đàn ông, đàn bà, và trẻ con đã đi qua các cổng trại tập trung cải tạo (Mao Trạch Ðông có sáng kiến gọi là Lao Cải: Cải tạo con người bằng công việc lao động). Nhưng con số những người đã bị công cuộc tập thể hóa nông nghiệp của Stalin buộc vào đường cùng phải chết đói còn cao hơn nữa.

Ðối với các vị Chúa Ðỏ thì những cái chết đó không có gì đáng kể. Một cán bộ của Stalin giải thích cho cấp dưới nghe về cuộc đấu tranh giữa đảng Cộng Sản và các nông dân không chịu vào tập thể, “Năm nay là một năm đấu sức giữa chúng ta với chúng nó coi bên nào mạnh hơn. Phải qua một trận đói chúng mới biết ai làm chủ. Hàng triệu người đã chết, nhưng chương trình tập thể hóa nông nghiệp sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng ta đã thắng!” (trang 204)

Hồ Chí Minh đã chứng kiến những cảnh đó khi tới Nga lần đầu để được đào luyện trong trường cán bộ quốc tế của Stalin, với vai trò đem chủ nghĩa Cộng Sản gieo rắc khắp nơi trên thế giới. Không phải Lenin hay Stalin nói, mà chính Trotsky đã nói câu này, “Con đường dẫn tới Paris và London đi qua Afghanistan, vùng Punjab và Bengal (Ấn Ðộ).” Dù Stalin đã giết Trotsky nhưng ông ta vẫn theo tấm bản đồ bành trướng đó. Trong số các cán bộ được Stalin đào tạo, hai người thành công nhất là Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn và Hồ Chí Minh ở Việt Nam.

Cho nên chúng ta không ngạc nhiên nếu Hồ Chí Minh đã sử dụng tất cả các phương pháp dùng bạo lực và dối trá mà Stalin đã thử dùng rất có hiệu quả trong việc cướp quyền hành và củng cố quyền hành. Các phương pháp khủng bố bằng bạo lực ở nước ta có thể nói đã giảm bớt cường độ so với các gì Stalin đã làm, vì văn hóa phong tục Việt Nam khác với tác phong của người Nga. Về bạo lực, chính Mao Trạch Ðông mới là khuôn mẫu mà Hồ Chí Minh đã noi theo. Nhưng về mặt dối trá thì giữa Mao và Stalin không khác gì nhau. Việc sử dụng các văn nghệ sĩ vào việc đánh bóng chế độ, ca ngợi lãnh tụ đã được Stalin dùng trước, sau đến Hitler và Mao Trạch Ðông. Hồ Chí Minh đã áp dụng giống hệt ở Việt Nam.

Chính nhưng hành động đó là cái Nhạc sĩ Tô Hải gọi là “súc vật hóa con người.”

Khi một chế độ độc tài chỉ dùng bạo lực để giết chóc, đe dọa dân, khủng bố dân, thì họ độc ác nhưng vẫn chưa phi nhân.

Có những chế độ không những độc ác mà còn tìm cách hạ thấp nhân phẩm của mọi người dưới quyền, khiến cho họ trở thành hèn hạ, mất tư cách. Ðó mới là biến con người thành “súc vật” thật sự. Tất nhiên, muốn làm cho tất cả mọi người trở thành hèn hạ, đê tiện thì trước đó phải dùng đến các biện pháp tàn ác để đe dọa. Nhưng cái tội biến con người thành những kẻ hèn hạ, mất cả khái niệm về nhân phẩm còn kinh khủng hơn nữa. Tô Hải cho cái tội “súc vật hóa con người” đứng hàng thứ hai sau tội giết người. Có thể đổi lại cũng được. Tội giết người không nặng bằng, nếu vẫn để cho các nạn nhân ngẩng đầu lên chết xứng đáng làm người. Còn hơn bắt người ta sống như súc vật.