Giáo xứ Quỳnh Lưu và Giáo xứ Đông Yên, cũng thuộc Giáo phận Vinh.
Kính mời Đồng bào xem câu chuyện chiến đấu vì đức tin và công lý tại hai giáo xứ này
Xin vui lòng phổ biến rộng rãi. Chúng tôi chân thành cảm ơn
KHỐI 8406
Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956
Cẩm Ninh
Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất giá trị.
Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài người.
1. Chính sách Cải cách Ruộng đất :
Lãnh đạo CSVN đã bắt đầu cuộc cải tạo nông nghiệp tại miền Bắc khi thực dân Pháp vẫn còn xâm chiếm nước ta. Hồ Chí Minh đã ký 2 Sắc luật Giảm Tô (tức giảm số thóc gạo mà nông dân phải trả cho người chủ đất) số 78/SL ngày 14-7-1949, và Sắc luật 42/SL ngày 1-7-1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến, nằm trong toàn bộ chính sách thuế khóa, gồm cả thuế công thương nghiệp, sát sinh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng... Chính sách thuế nông nghiệp đã khởi đầu cho các chiến dịch phân mảnh định hàng các loại ruộng, bình sản lượng, bình diện tích mỗi mảng đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến hành chiến dịch chống phản động, đấu tranh giảm tô kéo dài đến năm 1954, và chỉ tạm ngưng khi chiến trường Ðiện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và sau đó đưa đến Hiệp định Geneva ký vào tháng 7-1954. Kế đến, lãnh đạo CSVN lại tạm ngưng chiến dịch Cải cách ruộng đất tới cuối năm 1955, đầu 1956, vì (1) CSVN bận lo đón tiếp hơn 50.000 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, (2) phải đối phó với phong trào di cư và cuộc biểu tình đòi di cư của người dân vùng Ba Làng (Thanh Hóa) (3). Phải che giấu phần nào thủ đoạn tàn bạo để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế của Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến và ổn định tình hình nội bộ.
Giai đoạn thứ hai của Cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955, lãnh đạo CSVN tiếp tục phát động phong trào quần chúng qua nhiều đợt đấu tranh cải cách ruộng đất. Trong giai đoạn này, hình thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, nhưng khác ở mức độ tàn bạo cao hơn gấp bội và số nạn nhân cũng gia tăng do sự càn đi, quét lại và kích tỷ lệ. Ở một số nơi như các vùng vừa tiếp thu và đồng bằng bên bờ sông Nhị Hà chẳng hạn, CSVN tiến hành song song 2 chiến dịch Đấu tranh giảm tô và Cải cách ruộng đất một lượt. Ðiều cần nhấn mạnh là CSVN đã bắt chước y hệt chính sách Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, nên đã cho các cán bộ học tập kinh nghiệm nguyên văn cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Ðông. Ở Trung Quốc, ngoài ruộng đồng bao la bát ngát, một địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ và quân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp, cũng như để đàn áp và bóc lột nông dân. Trong khi ở miền Bắc VN, cái mà CSVN gọi là địa chủ đại gian đại ác thường chỉ có mấy mẫu ruộng, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn (thường giúp đỡ người nghèo) và có thể trở thành đối tượng chống đối đảng và nhà nước.
Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
Mục tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng. Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu tố chụp mũ như sau :
"...Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời : Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là : "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "Ðả đảo tên Ðô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong".
Rất nhiều người thuộc thành phần trung nông (trung nông cấp thấp : vài sào (acre) đất; trung nông cấp cao: 1-3 sào và 1 con trâu), tiểu thương cũng bị kích lên thành địa chủ (địa chủ thường : 3-5 sào hay có khi hơn một chút, không giàu, cho mướn ruộng lấy địa tô, không có tội với nhân dân; địa chủ cường hào ác bá : 3-5 sào, có tội với nhân dân; địa chủ phản động : đảng viên VN Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt v.v...). Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80.000 người. Chưa kể số người chết tăng lên qua chính sách kích tỷ lệ theo đúng chỉ tiêu do đảng CSVN đề ra. Sự oán hận của người dân ngày càng dâng cao ở khắp nơi. Nhiều vụ phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Ngay lúc đó, nhiều biến cố chính trị đã xảy ra tại các nước CS như Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hung Gia Lợi. Liên Xô yêu cầu Hồ Chí Minh thực hiện việc xét lại. Hồ Chí Minh chuẩn bị kế hoạch ngừng chiến dịch đấu tố vào tháng 3-1956, nhưng chính thức ra lịnh đình chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ vào tháng 10-1956. Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng, Võ Nguyên Giáp đã thay mặt đảng đọc một bản thú nhận sai lầm trong cuộc Cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà, cách chức Thứ trưởng phụ trách Cải cách ruộng đất là Hồ Viết Thắng để xoa dịu lòng dân. Ðảng CSVN cũng thả 12.000 đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết tội địa chủ, trong số này nhiều người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành.
Tuy nhiên oán thù của người dân không vì thế mà nguôi ngoai. Nhiều vụ nổi dậy, bạo động lớn nhỏ đã xảy ra sau đó, như Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hải Phòng, Lạng Sơn... Trong thời gian này cũng có những vụ bạo động khác như những vụ thanh niên và công nhân Nam Bộ tập kết đập phá bót cảnh sát ở bờ hồ Hà Nội (cạnh ga tàu điện, đầu phố Cầu Gỗ).
2. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu :
Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.
Ở nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN rất lo sợ.
Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm,
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêu,
- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công,
- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.
Cán bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.
Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.
Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.
Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời : "Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành". Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.
Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.
Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát "Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa" đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :
Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta
Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: "Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân", "Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu", "Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt"... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.
Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.
Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.
Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.
Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: "Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân", nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.
CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.
*****
Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.
Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể.
Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng.
Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do.
Tài liệu tham khảo:
- Trăm Hoa Ðua Nở Trên Ðất Bắc của Hoàng Văn Chí.
- Cuộc Cải Cách Nông Ngiệp tại Miền Bắc của Võ Trường Sơn.
- Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn.
- Cuộc Phiêu Lưu của một Gia Ðình Nông Dân của Thập Lang.
Gương can đảm của giáo dân Công giáo Đông Yên
Phaolô Trần
Đông Yên là một xứ đạo Công giáo nằm ven bờ biển, về đạo thuộc Giáo phận Vinh, về đời thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh [1]. Giáo dân Đông Yên tuy quê mùa [2] nhưng rất sốt sắng trong đời sống kinh nguyện nói chung và trong lòng sùng kính Đức Mẹ nói riêng [3]. Đứng trước sự đàn áp tôn giáo kiểu sắt đá của chính quyền cộng sản từ thập niên 50 đến giữa thập niên 80, giáo dân Đông Yên đã tỏ ra can đảm phi thường trong việc bảo vệ Đạo của mình [4]. Câu chuyện dưới đây là một trong những bằng chứng cụ thể của lòng can đảm bất khuất đó. Những giáo dân ở Đông Yên trước đây cũng như những giáo dân ở Đốc Sơ, Nguyệt Biều, rồi An Truyền sau này, khi họ can đảm đứng lên ủng hộ và bảo vệ vị chủ chăn của họ là Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý, tất cả chẳng qua viết tiếp những trang sử xanh, trên đó truyền thống đức tin anh hùng của người giáo dân Công giáo Việt Nam không ngừng in đậm dấu son kể từ ngày Đạo Chúa được rao giảng trên đất nước Lạc Hồng. Xin được phép nhắc lại rằng giáo dân chiếm đại đa số trong số 130.000 vị tử đạo Việt Nam chưa được phong hiển thánh cũng như trong số 117 vị tử đạo đã được phong.
Câu chuyện bắt đầu từ tháng Chạp năm 1969. Xứ đạo Đông Yên lúc đó có khoảng 1.500 giáo dân với một linh mục duy nhất là Cha Vũ Đình Giáo. Số là Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, cũng như nhiều nơi khác, thường mời Cha Giáo cũng như mọi linh mục khác trong giáo phận đi họp hội nghị Mặt trận để nghe thuyết trình về chính sách này đường lối nọ của Đảng, của chính quyền. Ủy ban mới tới hai lần đều bị ngài từ chối. Cho là ngài có thái độ chống đối, lần thứ ba chính quyền Cộng sản không mời nữa nhưng tống giấy triệu tập ngài lên ty công an tỉnh. Được tin này, giáo dân Đông Yên nhất quyết không để cho ngài đi vì họ có lý để nghĩ rằng một khi ngài ra ngoài ty công an, ngài sẽ bị nhốt hoặc bắt đi luôn. Giáo dân không muốn xứ đạo của mình không có linh mục. Thế là giáo dân tụ tập xung quanh nhà xứ, canh giữ không cho chính quyền vào đưa ngài đi.
Thấy giáo dân tỏ ra quá đồng lòng và kiên quyết, nên để áp đảo tinh thần của họ, ngay từ đầu chính quyền đã huy động cả một lực lượng trên 3.000 gồm công an cũng như cán bộ của nhiều cơ quan ban ngành khác từ xã, huyện, đến tỉnh: cứ 1 giáo dân phải đối phó với 2 hoặc 3 nhân viên của chính quyền. Ngoài ra còn có cả một sư đoàn của quân đội cộng sản chực sẵn ngoài bờ biển để tiếp ứng khi cần. Trong tháng đầu 3.000 nhân viên chính quyền chủ yếu dùng lời lẽ hoặc thuyết phục hoặc đe doạ giáo dân. Nhưng giáo dân vẫn một mực không chịu mở vòng vây cho chính quyền vào đưa Cha Giáo đi.
Điều này khiến chính quyền cộng sản nghi ngờ rằng Cha Giáo không chỉ thuần tuý kháng lệnh triệu tập mà có thể trong nhà xứ còn chứa chấp gì khác, biết đâu có thể là gián điệp hay biệt kích của chính quyền miền Nam Cộng hòa hay thậm chí cả lính Mỹ. Giáo dân cam đoan trong nhà xứ không có gì khác, họ thuần tuý chỉ bảo vệ cha xứ, không muốn chính quyền bắt ngài đi, chỉ có thế thôi, nhưng chính quyền cộng sản với bản tính đa nghi hơn cả Tào Tháo, với chủ trương "giết lầm hơn bỏ sót", đời nào đi tin người dân. Nên từ tháng thứ hai trở đi, lực lượng của chính quyền chủ yếu mỗi ngày hai lần dùng sức mạnh xô đẩy, lôi kéo hòng phá vòng đai bảo vệ của giáo dân để xông vào nhà xứ. Nhưng cứ mỗi lần lực lượng chính quyền xông đến phá vòng vây thì giáo dân không những cố cản lại, mà còn đồng thanh, từ trẻ tới già, kêu to Tên cực trọng (tức tên Chúa). Kêu to Tên cực trọng khiến giáo dân lại hăng thêm, còn công an cán bộ của nhà nước nghe vậy thì hoảng sợ lùi lại. Cũng nên biết thêm rằng chính quyền còn bí mật lồng cả một đội đặc công vào trong 3.000 nhân viên nói trên để dễ bề hành động. Có lần ở một khâu của vòng vây sao đó khiến một viên đặc công xoay xở lọt qua được. Xông thẳng ngay tới cửa trước nhà xứ, anh ta dùng sức mạnh đập bể kính cửa hòng mở khóa vào nhà. Nhưng không hiểu sao các mảnh kính bể tự nhiên bắn ngược trở lại, cắm phập vào người anh ta, khiến anh ta ngã xuống chết ngay tại chỗ! Một số đồng đội của anh ta vừa mới len vào sau, thấy vậy liền xông đến lôi xác anh ta chạy đi. Ở những chỗ khác của vòng vây giáo dân đang giằng co với nhân viên chính quyền chỉ thấy chớp choáng bỗng nhiên từ phía sau họ chạy ra một tốp người kéo theo một người khác liền tưởng rằng có một số nhân viên chính quyền đã vào được nhà xứ bắt được Cha Giáo đem ra. Hoảng quá, nhiều giáo dân bỏ vị trí rượt theo để giành lại cha xứ của mình. Vòng đai bảo vệ của giáo dân sắp lỏng lẻo tới nơi. May thay Cha Giáo đã trở tay kịp thời. Ngài luôn có khoảng 4, 5 em nhỏ (từ 13 đến 14 tuổi) túc trực ở trong nhà xứ nên đã sai một hai em chạy ra gọi giật họ trở lại là Cha vẫn còn ở trong, chưa hề bị bắt.
Cứ thế kéo dài suốt ba tháng từ ngày đưa hơn 3.000 nhân viên của nó về Đông Yên, chính quyền cộng sản vẫn không phá được vòng đai bảo vệ của giáo dân. Một đàng hoàn cảnh không còn như thời Cải cách Ruộng đất nên chính quyền không thể công khai dùng súng đạn bắn vào cả một tập thể xứ đạo để xông vào nhà xứ. Đàng khác chẳng lẽ cả một chính quyền lại đi thua giáo dân của một xứ đạo, không làm sao cướp được cha xứ ra khỏi tay họ; nếu chuyện này để lộ ra sẽ khích lệ nhân dân ở các nơi khác noi gương giáo dân Đông Yên không phục tùng chính quyền nữa thì rắc rối. Vì thế tháng 03-1970 trung ương Đảng cộng sản có lệnh xuống phải bí mật dùng hỏa lực tiêu diệt hết người Công giáo Đông Yên, xóa sổ họ đạo này hoàn toàn, rồi dàn cảnh đổ tội là do Mỹ pháo kích hay thả bom [5]. Trung ương giao cho quân đội và công an phối hợp với nhau mà thi hành mệnh lệnh. Về phía quân đội người đứng đầu chịu trách nhiệm thi hành là đại tá Vũ Duy Hán, người Đô Lương, về phía công an là viên trưởng phòng phản gián của ty công an Hà Tĩnh. Phe chính quyền tập trung đủ thứ hỏa lực từ các tiểu đội trung cao, đại cao, tên lửa, cho đến các khẩu pháo cao xạ được bí mật vận chuyển đến và bố trí trên các đồi trọc xung quanh Đông Yên. Một kế hoạch phối hợp hỏa lực được vạch ra cụ thể và tập dượt trước trước ngày ra tay [6]. Trong lúc đó giáo dân Đông Yên vẫn kiên cường canh giữ quanh nhà xứ mà không hề hay biết trong vài ba đêm nữa họ có thể bị súng đạn của chính quyền bao vây và giết sạch.
Vào đêm mà chính quyền đã quyết định ra tay, khi lệnh khai hỏa ban ra, thì tự nhiên súng lại không nổ được. Điều kỳ diệu này không thể giải thích được trừ phi đó là phép lạ từ Trời cao. Phe chính quyền cũng khá ngạc nhiên nhưng vẫn cố nghĩ là do sự trục trặc kỹ thuật nào đó. Sau khi rà xét lại súng ống và phối hợp tập dượt cẩn thận hơn, đúng một tuần sau, vào khoảng 2g sáng, lệnh khai hỏa lại được ban ra. Nhưng vẫn y như lần trước, không hiểu sao súng cũng không nổ. Trước sự kiện kỳ lạ xảy ra tới hai lần này, ngay cả đại tá Hán cũng phải run sợ nhận rằng rõ ràng có bàn tay vô hình nào đó nhưng hết sức linh thiêng, đầy quyền phép can thiệp. Còn có chút ý thức tôn giáo, ông ta liền lập tức đào ngũ, bỏ về nhà, thà chấp nhận bị chính quyền kỷ luật còn hơn ở lại đó mà cưỡng lại phép Trời đã lộ ra nhãn tiền. Chính quyền cộng sản khi được báo cáo sự kiện kỳ lạ này cũng không dám cưỡng ép nhân viên mình tiếp tục thi hành kế hoạch thủ tiêu Đông Yên nên ra lệnh rút lui. Vì sợ lộ cái kế hoạch tàn ác và thâm độc đó, chính quyền cũng không dám đưa những người như đại tá Hán ra xét xử công khai mà chỉ bãi chức cho về làm dân thường. Tuy nhiên vì không muốn hoàn toàn mất mặt, chính quyền cộng sản cố tìm một cách khác dù cách này thì phải hạ mình, hạ giọng xuống một chút. Đó là tuy không dám bắt Cha Giáo nữa nhưng chính quyền thuyết phục Đức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức [7], Giám mục chính tòa của Giáo phận Vinh lúc đó, can thiệp đổi ngài đi một xứ đạo khác, đưa một cha khác về. Đức cha Đức cũng không phải tay vừa, lợi dụng chỗ núng thế của chính quyền liền ra điều kiện ngược lại là muốn đưa Cha Giáo đi khỏi Đông Yên thì cũng được, nhưng phải chấp nhận cho Cha Nguyễn Đăng Điền về đó, mà không phải là một linh mục nào khác, vì chỉ có một mình Cha Điền lúc đó là chưa có nhiệm sở. Cha Điền chịu chức cũng đã được bốn năm năm, nhưng chính quyền vẫn bắt ngài ở Tòa Giám mục Xã Đoài, ngăn cản không cho phép ngài đi xứ, vì biết rõ ngài cũng là loại linh mục có tinh thần chống đối, tuy cách khôn khéo. Thật là "tránh vỏ dưa đạp vỏ dừa", nhưng hết cách chính quyền đành phải nhượng bộ.
Về phía giáo dân Đông Yên, khi thấy chính quyền cộng sản ra lệnh cho nhân viên của nó rút lui, liền mừng rỡ cảm tạ Chúa và bảo nhau rằng: "Phen này quả là choa [8] thắng Đảng". Mãi về sau này giáo dân mới biết được âm mưu tàn độc của chính quyền muốn thủ tiêu toàn bộ xứ đạo Đông Yên lúc đó. Họ càng thêm cảm tạ Chúa và tin rằng Chúa đã làm phép lạ cứu họ nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ, Đấng họ rất mực sùng kính.
[1] Mãi cho đến sau khi chiếm miền Nam 1975 thì chính quyền cộng sản mới gộp Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thành một tỉnh tức Thanh Nghệ Tĩnh.
[2] Ví dụ như vào lúc câu chuyện kể đây xảy ra thì đàn ông con trai Đông Yên cũng vẫn còn mặc váy (mà tiếng địa phương gọi là "mấn") như đàn bà con gái.
[3] Ngay cả trẻ em khi đi xưng tội cũng thường được cha giải tội ra việc đền tội là lần cả chục tràng hạt Mân Côi. Các em hoàn toàn vui vẻ làm theo. Giáo dân Đông Yên mỗi lần chầu Thánh Thể để đền tạ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ thường chầu liên tục cả ba bốn giờ liền.
[4] Trong hai cuộc chiến tranh với Pháp và với Mỹ, giáo dân Đông Yên kiên quyết từ chối đi dân công hay đi bộ đội cho chính quyền cộng sản, lý do đơn giản vì đó là làm việc cho một tổ chức vô thần phá đạo.
[5] Lối "ném đá giấu tay" này chính quyền cộng sản dùng rất nhiều, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Áp dụng cho cả nhân sự lẫn cơ sở tôn giáo, ví dụ như Nhà thờ chánh tòa Xã Đòai, nhà thờ Cầu Rầm ở Vinh, nhà thờ Tam Tòa ở Đồng Hới đều bị chính quyền bố trí súng phòng không bên trong hoặc bên cạnh để máy bay Mỹ cho là nơi ẩn núp của bộ đội cộng sản mà dội bom phá sập. Lối ném đá giấu tay này mang công dụng "một mũi tên giết hai con chim", giống y như Hoà thượng Thích Quảng Độ đã nhận xét sau đây khi kể lại những trường hợp tương tự xảy ra cho các ngôi chùa Phật giáo: "Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển hình như chùa Thiên Trù (chùa Hương – chùa ngoài)…, chùa Quỳnh Lâm…, cộng sản thấy sau này, khi đã thành công, khó mà tự mình ra tay phá được vì sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đã rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt kích động lòng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết lòng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng!" (Bản Nhận Định về những sai lầm tai hại của Đảng CSVN đối với Dân tộc và Phật giáo Việt Nam: viết tháng 1-1992).
[6] Dĩ nhiên vào lúc đêm khuya mới là thời điểm ra tay tốt nhất.
[7] Đức Cha Trần Hữu Đức từ trần ngày 5-1-1971 sau khi làm Giám mục Giáo phận Vinh 20 năm.
[8] "Choa" hay "nhà choa" là tiếng địa phương mà người nói dùng như đại danh từ danh xưng ngôi thứ nhất số nhiều.
jeudi 30 juillet 2009
lundi 27 juillet 2009
Thư Hiệp Thông Với Giáo Phận Vinh & Giáo Xứ Tam Tòa
26-07-2009
Kính thưa:
- Đức Giám mục và Linh mục đoàn Giáo Phận Vinh,
- Cha Quản xứ và Anh Chị Em Giáo hữu Tam Tòa,
Chúng con ký tên dưới đây là đại diện cho Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tức là một số anh em linh mục đang dấn thân tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền theo tinh thần của vị Chủ chăn Tổng giáo phận Huế đã bị Cộng sản sát hại là Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Dựa theo Cấp báo, Thông báo rồi Đơn Khiếu nại của Tòa Giám mục Xã Đoài ngày 20 và 21-07-2009, tiếp đến là Thư thăm hỏi của Đức Giám mục ngày 22-07, Thư phúc đáp của Tòa Giám mục ngày 24-07, cùng những thông tin liên tục từ các chứng nhân trên các phương tiện truyền thông quốc nội và hải ngoại, chúng con biết rằng :
- Sáng ngày 20-07-2009 vừa qua, Anh Chị Em Giáo hữu Tam Toà, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, với sự giúp đỡ của Giáo hữu một số Giáo xứ bạn, đã dựng một nhà tạm trên nền nhà thờ Tam Toà, là sở hữu của Giáo phận, để cử hành Thánh Lễ. Công việc vừa hoàn thành thì hàng trăm Công an tỉnh Quảng Bình (với sự hỗ trợ của nhiều thành phần bất hảo) đã ngang nhiên xông vào phá đổ nhà tạm, xúc phạm Thánh giá, tịch thu máy móc vật liệu, đánh đập dã man Giáo dân già trẻ bằng hung khí, cướp các máy quay phim chụp hình của họ, cuối cùng tống một số người lên xe như súc vật và đem về đồn giam nhốt. Sau đó nhà cầm quyền còn huy động lương dân trong vùng tới tìm cách phá rối thêm khiến cho Giáo dân phải tản dần. Nay thì có công an chìm nổi và côn đồ thuê mướn canh gác khu vực nhà thờ để theo dõi, hăm dọa và hành hung những ai đến thăm viếng hiệp thông với Giáo xứ Tam Tòa.
- Khi các Linh mục phụ trách giáo hạt đi gặp nhà cầm quyền CS các cấp thuộc tỉnh Quảng Bình và thành phố Đồng Hới (Ủy ban Nhân dân và Công an) để chất vấn họ về việc đàn áp dã man dân lành ở Tam Toà, đòi hỏi họ trả tự do lập tức cho những người bị bắt giữ, đưa vào bệnh viện các nạn nhân bị công an đánh trọng thương và hoàn trả những phương tiện máy móc tịch thu cách phi pháp, các ngài đã bị “những đầy tớ nhân dân” một là tránh gặp mặt, hai là từ chối những yêu cầu chính đáng của các ngài. Nhà cầm quyền CS còn lếu láo cho rằng họ trấn áp và bắt giữ Giáo dân vì đã lấn chiếm di tích, gây rối trật tự chung và tấn công người thi hành công vụ !?!
- Trong khi đó, trả lời các hãng tin quốc ngoại lẫn quốc nội, cán bộ CS địa phương, chẳng hạn phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình, ông Trần Công Thuật, đã trâng tráo bác bỏ việc công an đánh đập giáo hữu và còn nói rằng vụ đụng độ xảy ra là giữa giáo hữu và dân địa phương, công an chỉ tới để ổn định trật tự !?! Ông Thuật còn ngang nhiên tuyên bố chính quyền tỉnh đã quyết định lấy nhà thờ Tam Toà làm “khu di tích chiến tranh, ghi nhớ tội ác Đế quốc Mỹ” từ năm 1997, và rằng họ từng đề nghị cho Giáo phận 5 địa điểm để xây dựng nhà thờ mới, nhưng Giáo phận cho tới nay vẫn không chịu. Nhiều cán bộ khác còn vu cáo “Giáo hữu là dân phản động, đến Tam Tòa dựng lại nhà thờ là tiếp tay cho Đế quốc, chống lại chính quyền, muốn xóa đi chứng tích Mỹ đã phá hoại Việt Nam”!?!
- Ngày 22-7, với thói quen “vừa ăn cướp vừa la làng” y như tại Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, công an tỉnh Quảng Bình lại quyết định khởi tố bảy Giáo dân (mà họ đã ngẫu nhiên bắt được) về tội gọi là “xây dựng trái phép, gây rối trật tự, chống người thi hành công vụ, ném đá vào người dân địa phương tại khu Chứng tích tội ác chiến tranh tháp chuông nhà thờ Tam Tòa”. Các Anh Chị Em đó là Mai Xuân Thú (sinh năm 1953), Cao Thị Tình (1957), Nguyễn Quang Trung (1973), Mai Lòng (1986), Hoàng Hữu (1955), Hoàng Thị Tý (1988) và Nguyễn Văn Dần (1974). Và vẫn cứ mánh khóe cũ, Công an tuyên bố “các bị can đã thừa nhận việc làm sai trái của mình” khi họ còn đang cô đơn trong bàn tay sắt máu và nham hiểm của Công an cũng như chưa có phiên tòa công minh và công khai xét xử.
- Sau cuộc đánh hội đồng của hàng trăm công an tỉnh Quảng Bình hôm 20-7-2009, nay thì đến lượt hàng trăm tờ báo công cụ tại Việt Nam, khởi đầu là tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN, mở một đợt cường tập thứ hai tấn công vào Giáo phận Vinh và 7 nạn nhân đang bị giam giữ. Báo này ngày 22-07-2009 đã có bài viết đầy đao to búa lớn : «Vụ xâm phạm chứng tích tội ác chiến tranh Tháp chuông nhà thờ Tam tòa (Đồng Hới, Quảng Bình) : Cần nghiêm trị những đối tượng vi phạm pháp luật». Với giọng lếu láo như thường thấy, tờ báo cho rằng Giáo dân đã «tiến hành xây dựng nhà trái phép, đặt tượng trong khuôn viên chứng tích bất chấp sự giải thích, bảo vệ của người dân Đồng Hới và chính quyền địa phương... một số đối tượng quá khích đã dùng gạch đá và gậy gộc tấn công lực lượng chức năng và người dân địa phương...». Đài Truyền hình VN cũng đang loan những tin tức xuyên tạc sự việc và vu cáo Giáo dân Tam Tòa.
Trước những sự kiện trên, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng con tuyên bố :
1- Hoàn toàn ủng hộ các đòi hỏi của Giáo phận Vinh và của Linh mục đoàn trong Thư khiếu nại ngày 22-07 cũng như trong Thư phúc đáp ngày 24-07. Chúng con đặc biệt đồng thuận với lời tuyên bố của cha Phạm Đình Phùng, chánh văn phòng TGM : «Cho đến nay, khuôn viên, tháp chuông nhà thờ Tam Tòa vẫn thuộc chủ quyền giáo xứ Tam Tòa, Giáo phận Vinh», cũng như lời chị Thu Thủy, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ Tam Tòa: “Chúng tôi muốn đòi lại công lý và đòi lại quyền sở hữu của chúng tôi nơi ngôi thánh đường đó” (RFA 22-07-2009). Đây là sự khẳng định chính đáng về quyền tư hữu đất đai của Giáo hội nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng. Quyền này “là một bảo đảm hữu hiệu cho phẩm giá con người và là một trợ lực cho con người tự do thực thi các trách nhiệm khác nhau của họ” (ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp “Hòa bình trên thế giới” số 21). Thế nhưng quyền thiêng liêng này, cho đến nay, vẫn bị đảng và nhà cầm quyền CSVN ngang nhiên tước đoạt của các cá nhân lẫn các tập thể, nhất là tập thể tôn giáo. Bằng chứng gần đây nhất là vụ Tòa Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội.
2- Cực lực phản đối việc Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình, từ năm 1997 -không hề hỏi ý kiến Tòa Giám mục Vinh- đã tự tiện và lộng quyền coi Nhà thờ Tam tòa như “Chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ”, bởi lẽ nó đã bị máy bay Hoa Kỳ ném bom tàn phá năm 1968 chỉ còn lại tháp chuông. Theo lịch sử, sở dĩ nhà thờ bị ném bom là vì quân đội Cộng sản thời đó đã bố trí các đơn vị phòng không chung quanh và cả bên trong nhà thờ, y như tại nhiều nhà thờ khác thuộc Giáo phận Vinh và trên cả miền Bắc trước năm 1973, theo chính sách tiêu diệt tôn giáo tinh vi của CS. Ngoài ra, đang khi chứng tích chiến tranh không hề thiếu ở bất cứ chỗ nào trên đất nước Việt Nam, thì việc biến một biểu tượng của Công giáo, đạo tình thương và tha thứ, thành biểu tượng ghen ghét hận thù, là một hành vi xúc phạm tôn giáo cách trầm trọng. Nếu gọi tháp chuông Tam Tòa là chứng tích tội ác, thì đó là chứng tích tội ác của CS quyết mượn tay Mỹ tàn phá cơ sở Công giáo năm 1968 và chứng tích tội ác của CS hôm 20-07 mới rồi. Tội ác đánh đập, nhục mạ các giáo hữu; tội ác dùng lương dân tấn công giáo dân nhằm chia rẽ, kích động hận thù tôn giáo trong lòng dân tộc; tội ác phá hoại, tịch thu tài sản, đánh đập dân lành không theo bất cứ trình tự pháp luật đúng đắn nào, không có bất cứ một văn bản, mệnh lệnh nào; tội ác dùng hệ thống pháp đình và hệ thống báo đài nhằm bôi nhọ, xuyên tạc sự thật, đổ lên đầu dân lành vô tội những tội trạng mà họ không hề có nhằm giấu đi sự man rợ của mình; tội ác ngang nhiên chiếm nơi thờ tự của Giáo dân, nhằm tước đoạt quyền tự do tôn giáo được Pháp luật bảo vệ và nhằm cướp lấy tài sản của Giáo hội.
3- Cực lực phản đối việc nhà cầm quyền địa phương Quảng Bình, trong chủ trương vô thần đấu tranh không hề lay chuyển, quyết tâm biến thành phố Đồng Hới thành một vùng trắng, nghĩa là sạch mọi dấu vết tôn giáo, đang khi Giáo xứ Tam Tòa đã liên tục hiện hữu từ năm 1631, Nhà thờ Tam Tòa đã được xây từ năm 1940, và hiện có khoảng 600 Giáo dân đang sinh sống trong khu vực. Đây cũng là chủ trương mà CS đang muốn thực thi tại khu Đô thị mới Thủ Thiêm, Sài Gòn, bằng cách xóa sổ Dòng Mến Thánh Giá vốn đã tồn tại ở đấy từ năm 1840 và Giáo xứ Thủ Thiêm vốn đã được thành lập ở đấy từ năm 1859.
4- Chân thành hiệp thông với Đức Cha, với Anh em Linh mục đoàn và nửa triệu Giáo hữu Giáo phận Vinh trong trong các khó khăn, sách nhiễu, đàn áp mà Giáo phận đang gánh chịu những giờ phút này, trong các hoạt động từ cầu nguyện, vận động đến đấu tranh mà Giáo phận đang thực hiện để đòi lại công lý cho Giáo xứ Tam Tòa, cho những Anh Chị Em bị hành hung, nhất là cho 7 Anh Chị Em đang bị cả hệ thống Pháp lý gian tà độc ác hành tội. Từ đó, trong sự phối hợp với mọi Giáo phận, mọi Giáo hội, mọi Thành phần Dân tộc, trong đường lối hòa bình bất bạo động nhưng quyết liệt kiên trì, trong thái độ chấp nhận gian khổ và can đảm hy sinh, tất cả chúng ta sẽ chung tay đòi lại công lý và sự thật, hạnh phúc và tự do cho Đồng bào, đòi lại Độc lập Dân tộc và Vẹn toàn Tổ quốc vốn đang lâm nguy vì ngoại xâm cướp nước và nội xâm bán nước.
Bởi lẽ những sai lầm và tội ác đối với Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa trên đây -cũng như đối với toàn thể Dân tộc và Đất nước qua bao vụ việc tước đoạt nhân quyền và dân quyền, cướp bóc đất đai và tài sản, tiến cống đất liền và hải đảo cho ngoại bang- mà đảng và nhà cầm quyền Việt Nam đang phạm từng ngày từng giờ từ hơn 60 năm nay, tất cả đều bắt nguồn sâu xa từ cái chủ nghĩa Cộng sản duy vật vô thần, làm băng hoại lương tâm và mờ tối lương tri, từ cái chế độ Cộng sản độc tài gian ác, chà đạp con người, tiêu diệt tôn giáo, coi khinh công lý, xuyên tạc sự thật, từ cái đảng Cộng sản phi nhân bản, vô tổ quốc, chỉ biết đặt quyền lợi và sự tồn tại của mình trên quyền lợi và sự tồn tại của Đồng bào và Dân tộc. Cái chủ nghĩa khốn nạn ấy phải bị tẩy rửa khỏi tâm trí toàn dân Việt Nam, cái chế độ khốn nạn ấy phải bị xóa sạch khỏi xã hội Việt Nam và cái đảng bất chính, bất nhân và bất tài ấy phải bị xua đuổi khỏi vũ đài chính trị Việt Nam. Không thể chần chờ hơn được nữa!
Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của các Thánh Tử đạo Việt Nam, ban xuống cho Đức Cha và toàn thể Giáo phận Vinh nhiều ơn khôn ngoan và can đảm.
Việt Nam, Chúa nhật 26-07-2009, giữa lúc nghe tin Tam tòa đang bị đàn áp tiếp.
Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn (đang nghỉ hưu)
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế (đang bị sách nhiễu)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang bị cầm tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản thúc)
Kính thưa:
- Đức Giám mục và Linh mục đoàn Giáo Phận Vinh,
- Cha Quản xứ và Anh Chị Em Giáo hữu Tam Tòa,
Chúng con ký tên dưới đây là đại diện cho Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, tức là một số anh em linh mục đang dấn thân tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền theo tinh thần của vị Chủ chăn Tổng giáo phận Huế đã bị Cộng sản sát hại là Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền.
Dựa theo Cấp báo, Thông báo rồi Đơn Khiếu nại của Tòa Giám mục Xã Đoài ngày 20 và 21-07-2009, tiếp đến là Thư thăm hỏi của Đức Giám mục ngày 22-07, Thư phúc đáp của Tòa Giám mục ngày 24-07, cùng những thông tin liên tục từ các chứng nhân trên các phương tiện truyền thông quốc nội và hải ngoại, chúng con biết rằng :
- Sáng ngày 20-07-2009 vừa qua, Anh Chị Em Giáo hữu Tam Toà, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, với sự giúp đỡ của Giáo hữu một số Giáo xứ bạn, đã dựng một nhà tạm trên nền nhà thờ Tam Toà, là sở hữu của Giáo phận, để cử hành Thánh Lễ. Công việc vừa hoàn thành thì hàng trăm Công an tỉnh Quảng Bình (với sự hỗ trợ của nhiều thành phần bất hảo) đã ngang nhiên xông vào phá đổ nhà tạm, xúc phạm Thánh giá, tịch thu máy móc vật liệu, đánh đập dã man Giáo dân già trẻ bằng hung khí, cướp các máy quay phim chụp hình của họ, cuối cùng tống một số người lên xe như súc vật và đem về đồn giam nhốt. Sau đó nhà cầm quyền còn huy động lương dân trong vùng tới tìm cách phá rối thêm khiến cho Giáo dân phải tản dần. Nay thì có công an chìm nổi và côn đồ thuê mướn canh gác khu vực nhà thờ để theo dõi, hăm dọa và hành hung những ai đến thăm viếng hiệp thông với Giáo xứ Tam Tòa.
- Khi các Linh mục phụ trách giáo hạt đi gặp nhà cầm quyền CS các cấp thuộc tỉnh Quảng Bình và thành phố Đồng Hới (Ủy ban Nhân dân và Công an) để chất vấn họ về việc đàn áp dã man dân lành ở Tam Toà, đòi hỏi họ trả tự do lập tức cho những người bị bắt giữ, đưa vào bệnh viện các nạn nhân bị công an đánh trọng thương và hoàn trả những phương tiện máy móc tịch thu cách phi pháp, các ngài đã bị “những đầy tớ nhân dân” một là tránh gặp mặt, hai là từ chối những yêu cầu chính đáng của các ngài. Nhà cầm quyền CS còn lếu láo cho rằng họ trấn áp và bắt giữ Giáo dân vì đã lấn chiếm di tích, gây rối trật tự chung và tấn công người thi hành công vụ !?!
- Trong khi đó, trả lời các hãng tin quốc ngoại lẫn quốc nội, cán bộ CS địa phương, chẳng hạn phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình, ông Trần Công Thuật, đã trâng tráo bác bỏ việc công an đánh đập giáo hữu và còn nói rằng vụ đụng độ xảy ra là giữa giáo hữu và dân địa phương, công an chỉ tới để ổn định trật tự !?! Ông Thuật còn ngang nhiên tuyên bố chính quyền tỉnh đã quyết định lấy nhà thờ Tam Toà làm “khu di tích chiến tranh, ghi nhớ tội ác Đế quốc Mỹ” từ năm 1997, và rằng họ từng đề nghị cho Giáo phận 5 địa điểm để xây dựng nhà thờ mới, nhưng Giáo phận cho tới nay vẫn không chịu. Nhiều cán bộ khác còn vu cáo “Giáo hữu là dân phản động, đến Tam Tòa dựng lại nhà thờ là tiếp tay cho Đế quốc, chống lại chính quyền, muốn xóa đi chứng tích Mỹ đã phá hoại Việt Nam”!?!
- Ngày 22-7, với thói quen “vừa ăn cướp vừa la làng” y như tại Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, công an tỉnh Quảng Bình lại quyết định khởi tố bảy Giáo dân (mà họ đã ngẫu nhiên bắt được) về tội gọi là “xây dựng trái phép, gây rối trật tự, chống người thi hành công vụ, ném đá vào người dân địa phương tại khu Chứng tích tội ác chiến tranh tháp chuông nhà thờ Tam Tòa”. Các Anh Chị Em đó là Mai Xuân Thú (sinh năm 1953), Cao Thị Tình (1957), Nguyễn Quang Trung (1973), Mai Lòng (1986), Hoàng Hữu (1955), Hoàng Thị Tý (1988) và Nguyễn Văn Dần (1974). Và vẫn cứ mánh khóe cũ, Công an tuyên bố “các bị can đã thừa nhận việc làm sai trái của mình” khi họ còn đang cô đơn trong bàn tay sắt máu và nham hiểm của Công an cũng như chưa có phiên tòa công minh và công khai xét xử.
- Sau cuộc đánh hội đồng của hàng trăm công an tỉnh Quảng Bình hôm 20-7-2009, nay thì đến lượt hàng trăm tờ báo công cụ tại Việt Nam, khởi đầu là tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN, mở một đợt cường tập thứ hai tấn công vào Giáo phận Vinh và 7 nạn nhân đang bị giam giữ. Báo này ngày 22-07-2009 đã có bài viết đầy đao to búa lớn : «Vụ xâm phạm chứng tích tội ác chiến tranh Tháp chuông nhà thờ Tam tòa (Đồng Hới, Quảng Bình) : Cần nghiêm trị những đối tượng vi phạm pháp luật». Với giọng lếu láo như thường thấy, tờ báo cho rằng Giáo dân đã «tiến hành xây dựng nhà trái phép, đặt tượng trong khuôn viên chứng tích bất chấp sự giải thích, bảo vệ của người dân Đồng Hới và chính quyền địa phương... một số đối tượng quá khích đã dùng gạch đá và gậy gộc tấn công lực lượng chức năng và người dân địa phương...». Đài Truyền hình VN cũng đang loan những tin tức xuyên tạc sự việc và vu cáo Giáo dân Tam Tòa.
Trước những sự kiện trên, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng con tuyên bố :
1- Hoàn toàn ủng hộ các đòi hỏi của Giáo phận Vinh và của Linh mục đoàn trong Thư khiếu nại ngày 22-07 cũng như trong Thư phúc đáp ngày 24-07. Chúng con đặc biệt đồng thuận với lời tuyên bố của cha Phạm Đình Phùng, chánh văn phòng TGM : «Cho đến nay, khuôn viên, tháp chuông nhà thờ Tam Tòa vẫn thuộc chủ quyền giáo xứ Tam Tòa, Giáo phận Vinh», cũng như lời chị Thu Thủy, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ Tam Tòa: “Chúng tôi muốn đòi lại công lý và đòi lại quyền sở hữu của chúng tôi nơi ngôi thánh đường đó” (RFA 22-07-2009). Đây là sự khẳng định chính đáng về quyền tư hữu đất đai của Giáo hội nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng. Quyền này “là một bảo đảm hữu hiệu cho phẩm giá con người và là một trợ lực cho con người tự do thực thi các trách nhiệm khác nhau của họ” (ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp “Hòa bình trên thế giới” số 21). Thế nhưng quyền thiêng liêng này, cho đến nay, vẫn bị đảng và nhà cầm quyền CSVN ngang nhiên tước đoạt của các cá nhân lẫn các tập thể, nhất là tập thể tôn giáo. Bằng chứng gần đây nhất là vụ Tòa Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội.
2- Cực lực phản đối việc Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình, từ năm 1997 -không hề hỏi ý kiến Tòa Giám mục Vinh- đã tự tiện và lộng quyền coi Nhà thờ Tam tòa như “Chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ”, bởi lẽ nó đã bị máy bay Hoa Kỳ ném bom tàn phá năm 1968 chỉ còn lại tháp chuông. Theo lịch sử, sở dĩ nhà thờ bị ném bom là vì quân đội Cộng sản thời đó đã bố trí các đơn vị phòng không chung quanh và cả bên trong nhà thờ, y như tại nhiều nhà thờ khác thuộc Giáo phận Vinh và trên cả miền Bắc trước năm 1973, theo chính sách tiêu diệt tôn giáo tinh vi của CS. Ngoài ra, đang khi chứng tích chiến tranh không hề thiếu ở bất cứ chỗ nào trên đất nước Việt Nam, thì việc biến một biểu tượng của Công giáo, đạo tình thương và tha thứ, thành biểu tượng ghen ghét hận thù, là một hành vi xúc phạm tôn giáo cách trầm trọng. Nếu gọi tháp chuông Tam Tòa là chứng tích tội ác, thì đó là chứng tích tội ác của CS quyết mượn tay Mỹ tàn phá cơ sở Công giáo năm 1968 và chứng tích tội ác của CS hôm 20-07 mới rồi. Tội ác đánh đập, nhục mạ các giáo hữu; tội ác dùng lương dân tấn công giáo dân nhằm chia rẽ, kích động hận thù tôn giáo trong lòng dân tộc; tội ác phá hoại, tịch thu tài sản, đánh đập dân lành không theo bất cứ trình tự pháp luật đúng đắn nào, không có bất cứ một văn bản, mệnh lệnh nào; tội ác dùng hệ thống pháp đình và hệ thống báo đài nhằm bôi nhọ, xuyên tạc sự thật, đổ lên đầu dân lành vô tội những tội trạng mà họ không hề có nhằm giấu đi sự man rợ của mình; tội ác ngang nhiên chiếm nơi thờ tự của Giáo dân, nhằm tước đoạt quyền tự do tôn giáo được Pháp luật bảo vệ và nhằm cướp lấy tài sản của Giáo hội.
3- Cực lực phản đối việc nhà cầm quyền địa phương Quảng Bình, trong chủ trương vô thần đấu tranh không hề lay chuyển, quyết tâm biến thành phố Đồng Hới thành một vùng trắng, nghĩa là sạch mọi dấu vết tôn giáo, đang khi Giáo xứ Tam Tòa đã liên tục hiện hữu từ năm 1631, Nhà thờ Tam Tòa đã được xây từ năm 1940, và hiện có khoảng 600 Giáo dân đang sinh sống trong khu vực. Đây cũng là chủ trương mà CS đang muốn thực thi tại khu Đô thị mới Thủ Thiêm, Sài Gòn, bằng cách xóa sổ Dòng Mến Thánh Giá vốn đã tồn tại ở đấy từ năm 1840 và Giáo xứ Thủ Thiêm vốn đã được thành lập ở đấy từ năm 1859.
4- Chân thành hiệp thông với Đức Cha, với Anh em Linh mục đoàn và nửa triệu Giáo hữu Giáo phận Vinh trong trong các khó khăn, sách nhiễu, đàn áp mà Giáo phận đang gánh chịu những giờ phút này, trong các hoạt động từ cầu nguyện, vận động đến đấu tranh mà Giáo phận đang thực hiện để đòi lại công lý cho Giáo xứ Tam Tòa, cho những Anh Chị Em bị hành hung, nhất là cho 7 Anh Chị Em đang bị cả hệ thống Pháp lý gian tà độc ác hành tội. Từ đó, trong sự phối hợp với mọi Giáo phận, mọi Giáo hội, mọi Thành phần Dân tộc, trong đường lối hòa bình bất bạo động nhưng quyết liệt kiên trì, trong thái độ chấp nhận gian khổ và can đảm hy sinh, tất cả chúng ta sẽ chung tay đòi lại công lý và sự thật, hạnh phúc và tự do cho Đồng bào, đòi lại Độc lập Dân tộc và Vẹn toàn Tổ quốc vốn đang lâm nguy vì ngoại xâm cướp nước và nội xâm bán nước.
Bởi lẽ những sai lầm và tội ác đối với Giáo phận Vinh và Giáo xứ Tam Tòa trên đây -cũng như đối với toàn thể Dân tộc và Đất nước qua bao vụ việc tước đoạt nhân quyền và dân quyền, cướp bóc đất đai và tài sản, tiến cống đất liền và hải đảo cho ngoại bang- mà đảng và nhà cầm quyền Việt Nam đang phạm từng ngày từng giờ từ hơn 60 năm nay, tất cả đều bắt nguồn sâu xa từ cái chủ nghĩa Cộng sản duy vật vô thần, làm băng hoại lương tâm và mờ tối lương tri, từ cái chế độ Cộng sản độc tài gian ác, chà đạp con người, tiêu diệt tôn giáo, coi khinh công lý, xuyên tạc sự thật, từ cái đảng Cộng sản phi nhân bản, vô tổ quốc, chỉ biết đặt quyền lợi và sự tồn tại của mình trên quyền lợi và sự tồn tại của Đồng bào và Dân tộc. Cái chủ nghĩa khốn nạn ấy phải bị tẩy rửa khỏi tâm trí toàn dân Việt Nam, cái chế độ khốn nạn ấy phải bị xóa sạch khỏi xã hội Việt Nam và cái đảng bất chính, bất nhân và bất tài ấy phải bị xua đuổi khỏi vũ đài chính trị Việt Nam. Không thể chần chờ hơn được nữa!
Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của các Thánh Tử đạo Việt Nam, ban xuống cho Đức Cha và toàn thể Giáo phận Vinh nhiều ơn khôn ngoan và can đảm.
Việt Nam, Chúa nhật 26-07-2009, giữa lúc nghe tin Tam tòa đang bị đàn áp tiếp.
Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
- Linh mục Têphanô Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn (đang nghỉ hưu)
- Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo phận Huế (đang bị sách nhiễu)
- Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo phận Huế (đang bị cầm tù)
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh (đang bị quản thúc)
mercredi 22 juillet 2009
Ấn Độ và Mỹ đã chọn Dân Chủ
Tuesday, July 21, 2009
Ngô Nhân Dụng
Hai nước Ấn Ðộ và Hoa Kỳ mới ký các hiệp ước quân sự và năng lượng, nhưng Ấn Ðộ từ chối không thỏa hiệp với Mỹ trong vấn đề môi trường. Người Việt Nam thấy điều gì trong kinh nghiệm bang giao giữa hai nước dân chủ? Ðó là hai quốc gia đối xử với nhau một cách bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cho nên có lúc đồng ý, có lúc bất đồng mà không gây thù oán.
Hai nước đó dễ giao thiệp vì họ đều chọn thể chế dân chủ ngay từ khi lập quốc; ở Mỹ hơn 200 năm trước đây và tại Ấn Ðộ hơn 60 năm. Những chính quyền biết tôn trọng ý kiến của dân mình thì cũng dễ biết phải tôn trọng ý kiến của các quốc gia khác. Lựa chọn sống dân chủ ngay từ lúc khởi đầu của những người lãnh đạo hai nước đó đã được các thế hệ sau giữ gìn cho đến ngày nay. Nếu như dân tộc Việt Nam cũng được lựa chọn như người Ấn Ðộ làm vào năm 1947 thì chắc hẳn giờ này nước ta đã mạnh không thua kém Ðài Loan hoặc Hàn Quốc. Nhưng vì đã lỡ bỏ qua một cơ hội năm 1945, bây giờ là lúc dân tộc Việt Nam không thể tiếp tục chậm chân được nữa; phải dân chủ hóa càng sớm càng tốt.
Trước khi lên đường rời Ấn Ðộ trở về nước sau chuyến công du 5 ngày, trong cuộc họp báo chung với Ngoại Trưởng S.M. Krishna, Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton nói rằng, “Tôi thiết nghĩ chúng ta không thể bỏ qua tầm quan trọng của mối quan hệ giữa hai nước chúng ta, giữa hai nước dân chủ. Chúng ta hiểu khi các chế độ dân chủ quyết định thì khó khăn chứ không dễ; và chúng ta kính trọng tính chất sinh động trong thể chế dân chủ của nhau. Ðó là một nền tảng vững mạnh hơn bất cứ mối quan hệ nào khác trên thế giới.”
Bà Clinton nhắc tới “quyết định khó khăn,” vì chính phủ Ấn Ðộ đã từ chối không chấp nhận yêu cầu hạn chế khí thải công nghiệp của Mỹ. Vì một nước đang bắt đầu công nghiệp hóa, cần chạy gấp để đuổi kịp các nước tiên tiến thì không thể theo những tiêu chuẩn gắt gao như các nước tiên tiến khi muốn hạn chế ô nhiễm trong môi trường. Một chính quyền do dân chúng bầu lên ở Ấn Ðộ phải làm theo nhu cầu của quốc dân; mà một chính quyền dân chủ như ở nước Mỹ cũng phải biết tôn trọng nỗi khó khăn của Ấn Ðộ trước những quyết định lớn như vậy.
Hai quốc gia dân chủ đối xử với nhau trong tinh thần tương kính, minh bạch và công khai, khác hẳn lối giao thiệp của hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Hai năm trước, Tổng Thống George W. Bush đã ký một hỏa ước trao đổi kỹ thuật năng lượng nguyên tử mà các chính phủ Mỹ đã cấm vận Ấn Ðộ trong 34 năm. Ðó là một bước nhẩy vọt trong việc bang giao giữa hai quốc gia dân chủ đông dân nhất và nhì thế giới, sau gần một nửa thế kỷ lạnh nhạt vì trong thời Chiến Tranh Lạnh Ấn Ðộ nghiêng về phía Liên Xô. Chính quyền mới ở Mỹ đã bước thêm những bước mới với những thỏa hiệp hợp tác quân sự và công nghiệp vũ khí, kể cả trong chương trình không gian. Trong chuyến công du Tháng Hai năm nay bà Clinton đã thăm Trung Quốc mà không tới Ấn Ðộ vì muốn tránh không tới trước ngày dân Ấn Ðộ đi bỏ phiếu vào Tháng Năm vừa qua. Ðảng Quốc Ðại đã thắng lớn trong cuộc bầu cử đó, giống như ông Obama đã thắng lớn ở Mỹ năm ngoái. Ðúng như lời bà Clinton, bang giao giữa hai nước tự do dân chủ bao giờ cũng có nền tảng vững chắc và lâu bền hơn với những nước độc tài.
Trong số các quốc gia theo thể chế dân chủ, Ấn Ðộ là nước đông dân nhất, còn Mỹ là nước mạnh nhất. Cả hai đều xây dựng được nền tảng bền chặt cho thể chế tự do dân chủ kể từ khi lập quốc. Khi chia sẻ những giá trị giống nhau về quyền con người và quyền công dân thì chính quyền hai nước này dễ nói chuyện với nhau hơn. Quan trọng hơn nữa, thể chế chính trị mà mỗi nước dựng lên ngay từ khi lập quốc chứng tỏ có nền tảng chắc chắn, bắt rễ vào đời sống của người dân, các nhà chính trị đều tôn trọng luật chơi dân chủ không ai dám xé rào. Ðó chính là sức mạnh chính trị giúp cho mối bang giao giữa hai nước có thể bền chặt hơn.
Người Việt Nam nhìn vào lịch sử Mỹ và lịch sử Ấn Ðộ sẽ thấy một bài học, là những lựa chọn lúc khởi đầu của hai dân tộc này. Năm 1783, sau khi đánh bại quân đội Anh Hoàng, giới lãnh đạo các thuộc địa ở Mỹ lựa chọn theo lề lối tự do dân chủ. Năm 1947 sau khi Anh Quốc trao trả độc lập cho hai nước Ấn Ðộ và Pakistan, các nhà lãnh đạo Ấn Ðộ đã chọn quốc gia tân lập này phải được cai trị theo lề lối dân chủ tự do. Trong cả hai trường hợp đó, ở nước nào cũng có những khó khăn, trở ngại và nghi ngờ, lo lắng. Nhưng quyết tâm của những người lãnh đạo lúc ban đầu rất quan trọng. Nó ảnh hưởng tới vận mệnh một dân tộc trong hàng trăm năm sau đó.
Tổng Thống George Washington được người Mỹ tôn sùng vì chính những lựa chọn của ông đã tạo thành tập quán chính trị cho cả nước Mỹ suốt hai trăm năm. Năm 1783 sau khi hòa ước ký với chính phủ Anh, Washington đã ra trước hội nghị đại biểu các tiểu bang xin từ nhiệm, trả lại cho hội nghị quyền chỉ huy quân cách mạng, trả lại “ấn kiếm” để trở về đời sống thường dân. Ông về Mount Vernon vừa kịp dự lễ Giáng Sinh với bà vợ và các đứa con riêng của bà, rồi từ đó lo trông nom trang trại của bà, một người thông minh đảm lược dù chưa bao giờ được đi học ở trường. Năm 1787 phải nhiều người thuyết phục ông Washington mới nhận làm đại biểu tiểu bang Virginia trong Hội Nghị Lập Hiến. Sau khi bản hiến pháp thành hình, ông lại trở về trông coi trang trại. Năm 1789 được bầu ông làm tổng thống quốc gia mới, sau hai nhiệm kỳ ông nhất định rút lui.
Trong những năm đầu tiên của quốc gia non trẻ này, Tổng Thống Washington có thể chọn cách khác. Có người muốn nước Mỹ sẽ thành một vương quốc để có một ông vua đứng ngang hàng với vua nước Anh. Nếu ý kiến đó thành hình thì chắc chắn Washington sẽ được suy tôn làm vua. Năm 1783 là lúc hội nghị các tiểu bang đang kiệt quệ về tài chánh, nhiều tiểu bang không thiết tha gì đến việc kết hợp lại, như trong thời chiến. Lúc đó ông Washington cũng có thể đóng vai “cứu tinh dân tộc” đứng ra yêu cầu các đại biểu trao toàn quyền cho ông để chấn chỉnh tình hình tài chánh, thuế khóa. Vì nhờ uy tín của ông thì việc chấn chỉnh sẽ làm được dễ dàng. Nhưng Washington đã nhất định “rũ áo từ quan” chứ không tham quyền cố vị. Sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống, một lần nữa ông lại rũ áo đứng dậy, để cho thế hệ trẻ hơn gánh vác việc nước. Ít có một cá nhân nào lại ảnh hưởng đến tập quán chính trị của một quốc gia sâu xa như ông Washington ảnh hưởng trên nước Mỹ.
Ở Ấn Ðộ, ông Jawaharlal Nehru cũng có địa vị giống như vậy. Khi người Anh rút đi, để lại những nước nhỏ tha hồ lựa chọn, hoặc trở thành nhiều quốc gia độc lập, hoặc họp lại thành liên bang; hoặc giữ nguyên các vị vua xưng hùng cát cứ, hoặc tổ chức những định chế dân chủ cho người dân chọn bằng lá phiếu. Hai trăm triệu dân cái xứ chưa thành hình, sau được gọi tên là Ấn Ðộ, có thể chọn một chế độ thần quyền, chọn chia làm nhiều vương quốc và nước Cộng Hòa độc lập. Và đất nước chia rẽ về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, đẳng cấp này rất dễ rơi vào một chế độ quân phiệt, để trị an những vụ chia rẽ và bạo động. Nhưng Nehru là người đã lãnh đạo đảng Quốc Ðại đi tới quyết định chọn lối sống dân chủ tự do trong một liên bang.
Lựa chọn này đi ngược với lời khuyên của rất nhiều nhà chính trị Ấn Ðộ và ngoại quốc lúc đó. Họ hỏi làm sao 176 triệu cử tri phần lớn thất học và nghèo đói có thể sử dụng lá phiếu chọn người cai trị họ được? Ðám người đó có biết lá phiếu là cái gì, chính phủ là cái gì không?
Cuộc bỏ phiếu đầu tiên ở Ấn Ðộ diễn ra năm 1951 và 1952, sau khi đã thông qua một bản hiến pháp dân chủ. Các sử gia còn ghi lại sự ngạc nhiên của các nhà quan sát chính trị khi họ thấy những người dân Ấn nghèo nàn, mù chữ tham dự tích cực vào diễn trình dân chủ này. Bài học rút được là: Khi chúng ta tin tưởng vào người dân, họ sẽ trưởng thành, thiết tha với quyền bầy tỏ ý kiến bằng lá phiếu.
Báo chí ở Ấn Ðộ ghi nhận cảnh một ông già 110 tuổi ở Madurai được hai cháu nội dìu tới phòng đầu phiếu. Một bà lão 95 tuổi, lưng đã gù và lại điếc, vẫn đi bầu. Ai cũng thương tiếc một cụ già hơn 90 tuổi sau khi bỏ phiếu bầu Quốc Hội địa phương xong, chưa kịp bước sang phòng phiếu bầu Quốc Hội liên bang thì ngã xuống và qua đời.
Một nữ ký giả Mỹ tới Ấn Ðộ quan sát và chụp hình cuộc bỏ phiếu đầu tiên ở Himachal Pradesh đã kinh ngạc trước sự tận tâm của các công chức, những người vẫn được huấn luyện ý thức rằng bộ máy hành chánh phải đứng ngoài các hoạt động chính trị đảng phái. Một công chức địa phương đã đi bộ 6 ngày mới lên tới huyện dự khóa huấn luyện tổ chức phòng phiếu như thế nào. Một công chức khác khá giả hơn, cưỡi trên lưng con lừa tới dự họp sau 4 ngày di chuyển. Sau khi dự khóa huấn luyện đó, họ trở về làng mình đem theo những bao bố đựng hộp đựng phiếu, các lá phiếu in sẵn, bảng hiệu của các đảng tranh cử, và danh sách các ứng cử viên. Ðến ngày bỏ phiếu, cô nhà báo Mỹ đã tới làng Bhuti trên sườn núi. Tại đó, phòng đầu phiếu là một ngôi trường với một lớp học, chỉ có một cửa ra vào. Theo luật bầu cử thì các cử tri phải vào bằng một cửa và sau khi làm bổn phận công dân phải đi ra bằng cửa khác. Các nhân viên phòng đầu phiếu phải bắc ghế cho các cử tri già bước lên trèo qua cửa sổ khi đi ra. Ðó là những bước chân đầu tiên dẫn tới nền dân chủ Ấn Ðộ. Nhờ lòng thành tín của giới lãnh đạo chính trị từ lúc ban đầu, người dân đã tin tưởng vào thể chế tự do dân chủ trong hơn nửa thế kỷ qua.
Tại hai quốc gia Mỹ và Ấn Ðộ, không phải chỉ có Washington và Nehru chọn con đường dân chủ. Trong giai đoạn thành lập thể chế quốc gia sau khi độc lập, cả Mỹ lẫn Ấn Ðộ đều có những nhà trí thức hiểu biết và tin tưởng vào dân chủ.
Dân tộc ta không may mắn, cho nên năm 1945 khi có cơ hội giành độc lập, trong những bước đầu tiên nước Việt Nam đã không đi trên con đường dân chủ. Từ căn bản, chủ nghĩa Cộng Sản chọn thể chế độc tài. Họ gọi bằng danh hiệu “chuyên chính vô sản.” Nhưng năm 1945 trong giới trí thức và những nhà hoạt động cách mạng ở nước ta không thiếu gì những người tin tưởng dân Việt Nam đủ trưởng thành để sống trong một thể chế dân chủ. Không may cho dân ta là nhóm người chủ trương độc tài đảng trị lại là nhóm cướp được quyền lãnh đạo. Vì họ dám dứt khoát đoạn tuyệt với các quy tắc đạo lý và tình nghĩa con người. Hơn nữa, họ lại được Cộng Sản quốc tế huấn luyện, biết dùng những thủ đoạn ác độc nhất để cướp chính quyền và củng cố quyền hành. Cho nên trong khi dân Ấn Ðộ sử dụng lá phiếu củng cố chế độ dân chủ tự do của nước họ suốt 60 năm qua thì người Việt Nam đến nay vẫn phải tiếp tục sống trong một chế độ độc tài.
Tuy nhiên, không nên vì thế mà bi quan về tương lai đất nước. Biết rằng việc xây dựng lối sống tự do dân chủ cần thời gian chứ không giống như nấu mì ăn liền, cho nên chúng ta cần phải khởi đầu quá trình dân chủ hóa càng sớm càng tốt. Ðảng Cộng Sản không có lý do nào để trì hoãn không trả lại quyền quyết định cho dân. Nếu những người Ấn Ðộ có khả năng bắt đầu chế độ dân chủ tự do từ năm 1951 (trong khi 90% dân chúng họ mù chữ không đọc được tên các đảng chính trị mà chỉ có thể phân biệt bằng dấu hiệu), thì không có lý do gì mà 84 triệu người Việt Nam không được sử dụng quyền tự do dân chủ của mình.
Khi nào dân Việt Nam được tự do thì lúc đó nước Việt Nam mới thật sự độc lập, có thể hợp tác với các quốc gia dân chủ khác chống lại sức ép của Cộng Sản Trung Quốc.
Ngô Nhân Dụng
Hai nước Ấn Ðộ và Hoa Kỳ mới ký các hiệp ước quân sự và năng lượng, nhưng Ấn Ðộ từ chối không thỏa hiệp với Mỹ trong vấn đề môi trường. Người Việt Nam thấy điều gì trong kinh nghiệm bang giao giữa hai nước dân chủ? Ðó là hai quốc gia đối xử với nhau một cách bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cho nên có lúc đồng ý, có lúc bất đồng mà không gây thù oán.
Hai nước đó dễ giao thiệp vì họ đều chọn thể chế dân chủ ngay từ khi lập quốc; ở Mỹ hơn 200 năm trước đây và tại Ấn Ðộ hơn 60 năm. Những chính quyền biết tôn trọng ý kiến của dân mình thì cũng dễ biết phải tôn trọng ý kiến của các quốc gia khác. Lựa chọn sống dân chủ ngay từ lúc khởi đầu của những người lãnh đạo hai nước đó đã được các thế hệ sau giữ gìn cho đến ngày nay. Nếu như dân tộc Việt Nam cũng được lựa chọn như người Ấn Ðộ làm vào năm 1947 thì chắc hẳn giờ này nước ta đã mạnh không thua kém Ðài Loan hoặc Hàn Quốc. Nhưng vì đã lỡ bỏ qua một cơ hội năm 1945, bây giờ là lúc dân tộc Việt Nam không thể tiếp tục chậm chân được nữa; phải dân chủ hóa càng sớm càng tốt.
Trước khi lên đường rời Ấn Ðộ trở về nước sau chuyến công du 5 ngày, trong cuộc họp báo chung với Ngoại Trưởng S.M. Krishna, Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton nói rằng, “Tôi thiết nghĩ chúng ta không thể bỏ qua tầm quan trọng của mối quan hệ giữa hai nước chúng ta, giữa hai nước dân chủ. Chúng ta hiểu khi các chế độ dân chủ quyết định thì khó khăn chứ không dễ; và chúng ta kính trọng tính chất sinh động trong thể chế dân chủ của nhau. Ðó là một nền tảng vững mạnh hơn bất cứ mối quan hệ nào khác trên thế giới.”
Bà Clinton nhắc tới “quyết định khó khăn,” vì chính phủ Ấn Ðộ đã từ chối không chấp nhận yêu cầu hạn chế khí thải công nghiệp của Mỹ. Vì một nước đang bắt đầu công nghiệp hóa, cần chạy gấp để đuổi kịp các nước tiên tiến thì không thể theo những tiêu chuẩn gắt gao như các nước tiên tiến khi muốn hạn chế ô nhiễm trong môi trường. Một chính quyền do dân chúng bầu lên ở Ấn Ðộ phải làm theo nhu cầu của quốc dân; mà một chính quyền dân chủ như ở nước Mỹ cũng phải biết tôn trọng nỗi khó khăn của Ấn Ðộ trước những quyết định lớn như vậy.
Hai quốc gia dân chủ đối xử với nhau trong tinh thần tương kính, minh bạch và công khai, khác hẳn lối giao thiệp của hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Hai năm trước, Tổng Thống George W. Bush đã ký một hỏa ước trao đổi kỹ thuật năng lượng nguyên tử mà các chính phủ Mỹ đã cấm vận Ấn Ðộ trong 34 năm. Ðó là một bước nhẩy vọt trong việc bang giao giữa hai quốc gia dân chủ đông dân nhất và nhì thế giới, sau gần một nửa thế kỷ lạnh nhạt vì trong thời Chiến Tranh Lạnh Ấn Ðộ nghiêng về phía Liên Xô. Chính quyền mới ở Mỹ đã bước thêm những bước mới với những thỏa hiệp hợp tác quân sự và công nghiệp vũ khí, kể cả trong chương trình không gian. Trong chuyến công du Tháng Hai năm nay bà Clinton đã thăm Trung Quốc mà không tới Ấn Ðộ vì muốn tránh không tới trước ngày dân Ấn Ðộ đi bỏ phiếu vào Tháng Năm vừa qua. Ðảng Quốc Ðại đã thắng lớn trong cuộc bầu cử đó, giống như ông Obama đã thắng lớn ở Mỹ năm ngoái. Ðúng như lời bà Clinton, bang giao giữa hai nước tự do dân chủ bao giờ cũng có nền tảng vững chắc và lâu bền hơn với những nước độc tài.
Trong số các quốc gia theo thể chế dân chủ, Ấn Ðộ là nước đông dân nhất, còn Mỹ là nước mạnh nhất. Cả hai đều xây dựng được nền tảng bền chặt cho thể chế tự do dân chủ kể từ khi lập quốc. Khi chia sẻ những giá trị giống nhau về quyền con người và quyền công dân thì chính quyền hai nước này dễ nói chuyện với nhau hơn. Quan trọng hơn nữa, thể chế chính trị mà mỗi nước dựng lên ngay từ khi lập quốc chứng tỏ có nền tảng chắc chắn, bắt rễ vào đời sống của người dân, các nhà chính trị đều tôn trọng luật chơi dân chủ không ai dám xé rào. Ðó chính là sức mạnh chính trị giúp cho mối bang giao giữa hai nước có thể bền chặt hơn.
Người Việt Nam nhìn vào lịch sử Mỹ và lịch sử Ấn Ðộ sẽ thấy một bài học, là những lựa chọn lúc khởi đầu của hai dân tộc này. Năm 1783, sau khi đánh bại quân đội Anh Hoàng, giới lãnh đạo các thuộc địa ở Mỹ lựa chọn theo lề lối tự do dân chủ. Năm 1947 sau khi Anh Quốc trao trả độc lập cho hai nước Ấn Ðộ và Pakistan, các nhà lãnh đạo Ấn Ðộ đã chọn quốc gia tân lập này phải được cai trị theo lề lối dân chủ tự do. Trong cả hai trường hợp đó, ở nước nào cũng có những khó khăn, trở ngại và nghi ngờ, lo lắng. Nhưng quyết tâm của những người lãnh đạo lúc ban đầu rất quan trọng. Nó ảnh hưởng tới vận mệnh một dân tộc trong hàng trăm năm sau đó.
Tổng Thống George Washington được người Mỹ tôn sùng vì chính những lựa chọn của ông đã tạo thành tập quán chính trị cho cả nước Mỹ suốt hai trăm năm. Năm 1783 sau khi hòa ước ký với chính phủ Anh, Washington đã ra trước hội nghị đại biểu các tiểu bang xin từ nhiệm, trả lại cho hội nghị quyền chỉ huy quân cách mạng, trả lại “ấn kiếm” để trở về đời sống thường dân. Ông về Mount Vernon vừa kịp dự lễ Giáng Sinh với bà vợ và các đứa con riêng của bà, rồi từ đó lo trông nom trang trại của bà, một người thông minh đảm lược dù chưa bao giờ được đi học ở trường. Năm 1787 phải nhiều người thuyết phục ông Washington mới nhận làm đại biểu tiểu bang Virginia trong Hội Nghị Lập Hiến. Sau khi bản hiến pháp thành hình, ông lại trở về trông coi trang trại. Năm 1789 được bầu ông làm tổng thống quốc gia mới, sau hai nhiệm kỳ ông nhất định rút lui.
Trong những năm đầu tiên của quốc gia non trẻ này, Tổng Thống Washington có thể chọn cách khác. Có người muốn nước Mỹ sẽ thành một vương quốc để có một ông vua đứng ngang hàng với vua nước Anh. Nếu ý kiến đó thành hình thì chắc chắn Washington sẽ được suy tôn làm vua. Năm 1783 là lúc hội nghị các tiểu bang đang kiệt quệ về tài chánh, nhiều tiểu bang không thiết tha gì đến việc kết hợp lại, như trong thời chiến. Lúc đó ông Washington cũng có thể đóng vai “cứu tinh dân tộc” đứng ra yêu cầu các đại biểu trao toàn quyền cho ông để chấn chỉnh tình hình tài chánh, thuế khóa. Vì nhờ uy tín của ông thì việc chấn chỉnh sẽ làm được dễ dàng. Nhưng Washington đã nhất định “rũ áo từ quan” chứ không tham quyền cố vị. Sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống, một lần nữa ông lại rũ áo đứng dậy, để cho thế hệ trẻ hơn gánh vác việc nước. Ít có một cá nhân nào lại ảnh hưởng đến tập quán chính trị của một quốc gia sâu xa như ông Washington ảnh hưởng trên nước Mỹ.
Ở Ấn Ðộ, ông Jawaharlal Nehru cũng có địa vị giống như vậy. Khi người Anh rút đi, để lại những nước nhỏ tha hồ lựa chọn, hoặc trở thành nhiều quốc gia độc lập, hoặc họp lại thành liên bang; hoặc giữ nguyên các vị vua xưng hùng cát cứ, hoặc tổ chức những định chế dân chủ cho người dân chọn bằng lá phiếu. Hai trăm triệu dân cái xứ chưa thành hình, sau được gọi tên là Ấn Ðộ, có thể chọn một chế độ thần quyền, chọn chia làm nhiều vương quốc và nước Cộng Hòa độc lập. Và đất nước chia rẽ về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, đẳng cấp này rất dễ rơi vào một chế độ quân phiệt, để trị an những vụ chia rẽ và bạo động. Nhưng Nehru là người đã lãnh đạo đảng Quốc Ðại đi tới quyết định chọn lối sống dân chủ tự do trong một liên bang.
Lựa chọn này đi ngược với lời khuyên của rất nhiều nhà chính trị Ấn Ðộ và ngoại quốc lúc đó. Họ hỏi làm sao 176 triệu cử tri phần lớn thất học và nghèo đói có thể sử dụng lá phiếu chọn người cai trị họ được? Ðám người đó có biết lá phiếu là cái gì, chính phủ là cái gì không?
Cuộc bỏ phiếu đầu tiên ở Ấn Ðộ diễn ra năm 1951 và 1952, sau khi đã thông qua một bản hiến pháp dân chủ. Các sử gia còn ghi lại sự ngạc nhiên của các nhà quan sát chính trị khi họ thấy những người dân Ấn nghèo nàn, mù chữ tham dự tích cực vào diễn trình dân chủ này. Bài học rút được là: Khi chúng ta tin tưởng vào người dân, họ sẽ trưởng thành, thiết tha với quyền bầy tỏ ý kiến bằng lá phiếu.
Báo chí ở Ấn Ðộ ghi nhận cảnh một ông già 110 tuổi ở Madurai được hai cháu nội dìu tới phòng đầu phiếu. Một bà lão 95 tuổi, lưng đã gù và lại điếc, vẫn đi bầu. Ai cũng thương tiếc một cụ già hơn 90 tuổi sau khi bỏ phiếu bầu Quốc Hội địa phương xong, chưa kịp bước sang phòng phiếu bầu Quốc Hội liên bang thì ngã xuống và qua đời.
Một nữ ký giả Mỹ tới Ấn Ðộ quan sát và chụp hình cuộc bỏ phiếu đầu tiên ở Himachal Pradesh đã kinh ngạc trước sự tận tâm của các công chức, những người vẫn được huấn luyện ý thức rằng bộ máy hành chánh phải đứng ngoài các hoạt động chính trị đảng phái. Một công chức địa phương đã đi bộ 6 ngày mới lên tới huyện dự khóa huấn luyện tổ chức phòng phiếu như thế nào. Một công chức khác khá giả hơn, cưỡi trên lưng con lừa tới dự họp sau 4 ngày di chuyển. Sau khi dự khóa huấn luyện đó, họ trở về làng mình đem theo những bao bố đựng hộp đựng phiếu, các lá phiếu in sẵn, bảng hiệu của các đảng tranh cử, và danh sách các ứng cử viên. Ðến ngày bỏ phiếu, cô nhà báo Mỹ đã tới làng Bhuti trên sườn núi. Tại đó, phòng đầu phiếu là một ngôi trường với một lớp học, chỉ có một cửa ra vào. Theo luật bầu cử thì các cử tri phải vào bằng một cửa và sau khi làm bổn phận công dân phải đi ra bằng cửa khác. Các nhân viên phòng đầu phiếu phải bắc ghế cho các cử tri già bước lên trèo qua cửa sổ khi đi ra. Ðó là những bước chân đầu tiên dẫn tới nền dân chủ Ấn Ðộ. Nhờ lòng thành tín của giới lãnh đạo chính trị từ lúc ban đầu, người dân đã tin tưởng vào thể chế tự do dân chủ trong hơn nửa thế kỷ qua.
Tại hai quốc gia Mỹ và Ấn Ðộ, không phải chỉ có Washington và Nehru chọn con đường dân chủ. Trong giai đoạn thành lập thể chế quốc gia sau khi độc lập, cả Mỹ lẫn Ấn Ðộ đều có những nhà trí thức hiểu biết và tin tưởng vào dân chủ.
Dân tộc ta không may mắn, cho nên năm 1945 khi có cơ hội giành độc lập, trong những bước đầu tiên nước Việt Nam đã không đi trên con đường dân chủ. Từ căn bản, chủ nghĩa Cộng Sản chọn thể chế độc tài. Họ gọi bằng danh hiệu “chuyên chính vô sản.” Nhưng năm 1945 trong giới trí thức và những nhà hoạt động cách mạng ở nước ta không thiếu gì những người tin tưởng dân Việt Nam đủ trưởng thành để sống trong một thể chế dân chủ. Không may cho dân ta là nhóm người chủ trương độc tài đảng trị lại là nhóm cướp được quyền lãnh đạo. Vì họ dám dứt khoát đoạn tuyệt với các quy tắc đạo lý và tình nghĩa con người. Hơn nữa, họ lại được Cộng Sản quốc tế huấn luyện, biết dùng những thủ đoạn ác độc nhất để cướp chính quyền và củng cố quyền hành. Cho nên trong khi dân Ấn Ðộ sử dụng lá phiếu củng cố chế độ dân chủ tự do của nước họ suốt 60 năm qua thì người Việt Nam đến nay vẫn phải tiếp tục sống trong một chế độ độc tài.
Tuy nhiên, không nên vì thế mà bi quan về tương lai đất nước. Biết rằng việc xây dựng lối sống tự do dân chủ cần thời gian chứ không giống như nấu mì ăn liền, cho nên chúng ta cần phải khởi đầu quá trình dân chủ hóa càng sớm càng tốt. Ðảng Cộng Sản không có lý do nào để trì hoãn không trả lại quyền quyết định cho dân. Nếu những người Ấn Ðộ có khả năng bắt đầu chế độ dân chủ tự do từ năm 1951 (trong khi 90% dân chúng họ mù chữ không đọc được tên các đảng chính trị mà chỉ có thể phân biệt bằng dấu hiệu), thì không có lý do gì mà 84 triệu người Việt Nam không được sử dụng quyền tự do dân chủ của mình.
Khi nào dân Việt Nam được tự do thì lúc đó nước Việt Nam mới thật sự độc lập, có thể hợp tác với các quốc gia dân chủ khác chống lại sức ép của Cộng Sản Trung Quốc.
lundi 20 juillet 2009
Chữa Sạn Thận Không Cần Mổ
Thư y học từ Ðức: Chữa sạn thận không cần mổ
Friday, July 17, 2009
LTS: Lâm T. Phụng, tác giả tin này, nguyên là dược sĩ quản đốc (Manager) của công ty dược phẩm Hochst, Ðức Quốc, nay đã về hưu.
Thân gửi các bạn,
Ba tài liệu về sạn thận, sạn mật và tẩy gan rất có giá trị. Ngoài ra có một phương pháp lấy sạn cổ điển ở Việt Nam thường dùng cũng có hiệu quả mà tôi vẫn thường áp dụng cho những bệnh nhân như sau:
Mua 1 quả dứa, gọt vỏ, cắt phần đầu làm nắp đậy, khoét một lỗ sâu 3cm, đổ vào lỗ một muỗng nhỏ (muỗng cà phê) bột phèn chua, rồi đậy nắp lại, bỏ quả dứa vào lò nướng cho chin vàng, lấy ra, vắt lấy nước cốt, được chừng 2 ly. Tối đi ngủ uống 1 ly, mục đích làm cho sạn thận và bàng quang mềm ra như trứng gà non. Sáng vừa thức giấc, uống 1 ly còn lại, nằm nghỉ 30 phút, mục đích làm cho vỡ sạn thành bột bụi, rồi đi tiểu. Ðể ý nước tiểu đục như nước vo gạo hay như nước vôi, mùi nước tiểu rất khai. Triệu chứng của sạn thận là có cơn đau thắt từ bụng lan ra sau lưng, có khi đau từ thắt lưng sang bụng, mệt mỏi, nói không ra hơi, đi lại mạnh thì đau, không ăn uống được, có lúc nghĩ là bệnh đau lưng, có lúc nghĩ là bệnh đau bụng. Sau khi uống nước dứa phèn chua một ngày, những triệu chứng kể trên biến mất, không còn đau đớn, thở dễ, nói cười sang sảng như người hết bệnh. Sở dĩ tôi chỉ dẫn những bệnh nhân bị bệnh sạn thận dùng bài thuốc này là do một người bạn ở Việt Nam bị sạn hai bên thận do kết quả khám nghiệm thấy một bên thận có sạn to bằng nửa ngón tay cái, đã phải mổ gấp ở bệnh viện Bình Dân, anh xin cục sạn đó về làm kỷ niệm, còn sạn bên thận kia 1-2 tháng sau chờ anh hồi phục sức khỏe mới mổ tiếp.
Trong thời gian chờ đợi, thường xuyên anh bị đau phải nghỉ làm để dưỡng bệnh, nhưng triệu chứng trên lại tái phát. May mắn thay, anh gặp được một vị lương y lão thành chỉ cho bài thuốc dân gian này, anh không tin mấy, vì sợ phèn chua có độc, nhưng anh có ý định làm nước dứa phèn chua này, rồi lấy cục sạn đã mổ, ngâm vào đó xem kết quả ra sao. Ngày hôm sau, anh cầm cục sạn, nó có vỏ mềm như vỏ trứng non trong chứa chất lỏng chứ không cứng như cục sạn hôm qua. Anh hỏi tôi: dung dịch này uống vào có sao không? Tôi trả lời : Dân quê miền Bắc chúng tôi trước kia đều dùng những cục phèn chua để khuấy lọc nước sơn dùng làm nước ăn uống hàng ngày từ đời ông bà cha mẹ đến nay có thấy hại gì đâu. Thế là anh áp dụng để chữa cục sạn thứ hai. Kết quả là anh thấy khỏe, hết những triệu chứng đau và mệt mỏi kể trên. Cho nên đến ngày hẹn mổ với bác sĩ, anh đem theo một chai nước dứa phèn chua, và kể chuyện cho bác sĩ nghe, bác sĩ cho kiểm tra thận không thấy còn cục sạn, bác sĩ xin chai nước dứa phèn chua để ngâm thử mấy cục sạn mà bác sĩ sẵn có để thử nghiệm. Mấy hôm sau, bác sĩ cho hay, quả thật các cục sạn đã mềm ra, bóp dễ vỡ chảy ra nước, ông công nhận dung dịch này có kết quả làm tan vỡ sạn thận.
Sang đến Canada, bà nhạc của tôi cũng có những triệu chứng như trên, đi bệnh viện Jean Talon khám, bác sĩ thấy có sạn to, hẹn một tuần sau mổ. Nhưng về nhà, cụ đau không đi lại được, uống thuốc giảm đau không kết quả. Tôi đề nghị với cụ uống nước dứa phèn chua để giảm đau, còn việc đến ngày hẹn đi mổ thì cứ đi. Cụ bằng lòng.
Trái dứa ở Canada to gấp 2 lần trái dứa Việt Nam, cho nên tôi làm 2 lần. Tôi cho cụ uống 1 ly vào buổi tối, sang hôm sau uống 1 ly, khi đi tiểu, để ý thấy nước tiểu đục nhiều, sau đó cụ đi lại không đau, nói cười vui vẻ. Cụ nghi ngờ không biết sạn có hết không. Tôi nói còn nửa trái dứa nữa, cụ uống tiếp, khi đi tiểu, nước tiểu bình thường không vẩn đục. Ðến ngày hẹn mổ, tôi sợ bác sĩ chỉ nhìn theo kết quả cũ thì chắc chắn cụ sẽ phải bị mổ oan uổng, nên đề nghị với bác sĩ cho khám lại trước khi mổ vì nói rằng mình đã khỏe hết đau như trước. Bác sĩ khám lại rồi cho về, hẹn sẽ thông báo kết quả sau 1 tuần. Chúng tôi đợi 2 tuần không thấy bác sĩ cho biết kết quả, nên đã phone hỏi bác sĩ, ông cho biết không có sạn nên không phải mổ.
Con trai tôi đi làm, có những bạn Canadian bị sạn thận, muốn giới thiệu họ dùng nước dứa phèn chua nhưng sợ có chuyện gì xảy ra mình mang họa, nên chỉ cho họ ra tiệm thuốc Bắc mua loại thuốc thuốc bào chế sẵn của đông y cổ truyền có tên là Thạch Lâm Thông (thạch là đá, lâm là đi tiểu, thông là cho thoát ra ngoài), một hộp 40 viên, thành phần chính của thuốc là 100% Kim tiền thảo (cỏ đồng tiền). Tối uống 5 viên, sáng uống 5 viên, nước tiểu buổi sáng bị vẩn đục. Uống 2 ngày nếu nước tiểu còn vẩn đục mới cần uống hết 1 lọ. Nhiều người uống cũng có kết quả.
Những người bị sạn mật uống 4 ngày hết một lọ, uống 1-2 lọ, đi khám lại cũng thấy mất sạn không cần phải cắt túi mật. Người bình thường như chúng ta, cứ mỗi năm uống một lần, làm sạch sạn trong thận, bàng quang, sạn mật, và nhất là chữa được bệnh viêm tuyến tiền liệt (prostate) cũng có kết quả.
Phụng
Friday, July 17, 2009
LTS: Lâm T. Phụng, tác giả tin này, nguyên là dược sĩ quản đốc (Manager) của công ty dược phẩm Hochst, Ðức Quốc, nay đã về hưu.
Thân gửi các bạn,
Ba tài liệu về sạn thận, sạn mật và tẩy gan rất có giá trị. Ngoài ra có một phương pháp lấy sạn cổ điển ở Việt Nam thường dùng cũng có hiệu quả mà tôi vẫn thường áp dụng cho những bệnh nhân như sau:
Mua 1 quả dứa, gọt vỏ, cắt phần đầu làm nắp đậy, khoét một lỗ sâu 3cm, đổ vào lỗ một muỗng nhỏ (muỗng cà phê) bột phèn chua, rồi đậy nắp lại, bỏ quả dứa vào lò nướng cho chin vàng, lấy ra, vắt lấy nước cốt, được chừng 2 ly. Tối đi ngủ uống 1 ly, mục đích làm cho sạn thận và bàng quang mềm ra như trứng gà non. Sáng vừa thức giấc, uống 1 ly còn lại, nằm nghỉ 30 phút, mục đích làm cho vỡ sạn thành bột bụi, rồi đi tiểu. Ðể ý nước tiểu đục như nước vo gạo hay như nước vôi, mùi nước tiểu rất khai. Triệu chứng của sạn thận là có cơn đau thắt từ bụng lan ra sau lưng, có khi đau từ thắt lưng sang bụng, mệt mỏi, nói không ra hơi, đi lại mạnh thì đau, không ăn uống được, có lúc nghĩ là bệnh đau lưng, có lúc nghĩ là bệnh đau bụng. Sau khi uống nước dứa phèn chua một ngày, những triệu chứng kể trên biến mất, không còn đau đớn, thở dễ, nói cười sang sảng như người hết bệnh. Sở dĩ tôi chỉ dẫn những bệnh nhân bị bệnh sạn thận dùng bài thuốc này là do một người bạn ở Việt Nam bị sạn hai bên thận do kết quả khám nghiệm thấy một bên thận có sạn to bằng nửa ngón tay cái, đã phải mổ gấp ở bệnh viện Bình Dân, anh xin cục sạn đó về làm kỷ niệm, còn sạn bên thận kia 1-2 tháng sau chờ anh hồi phục sức khỏe mới mổ tiếp.
Trong thời gian chờ đợi, thường xuyên anh bị đau phải nghỉ làm để dưỡng bệnh, nhưng triệu chứng trên lại tái phát. May mắn thay, anh gặp được một vị lương y lão thành chỉ cho bài thuốc dân gian này, anh không tin mấy, vì sợ phèn chua có độc, nhưng anh có ý định làm nước dứa phèn chua này, rồi lấy cục sạn đã mổ, ngâm vào đó xem kết quả ra sao. Ngày hôm sau, anh cầm cục sạn, nó có vỏ mềm như vỏ trứng non trong chứa chất lỏng chứ không cứng như cục sạn hôm qua. Anh hỏi tôi: dung dịch này uống vào có sao không? Tôi trả lời : Dân quê miền Bắc chúng tôi trước kia đều dùng những cục phèn chua để khuấy lọc nước sơn dùng làm nước ăn uống hàng ngày từ đời ông bà cha mẹ đến nay có thấy hại gì đâu. Thế là anh áp dụng để chữa cục sạn thứ hai. Kết quả là anh thấy khỏe, hết những triệu chứng đau và mệt mỏi kể trên. Cho nên đến ngày hẹn mổ với bác sĩ, anh đem theo một chai nước dứa phèn chua, và kể chuyện cho bác sĩ nghe, bác sĩ cho kiểm tra thận không thấy còn cục sạn, bác sĩ xin chai nước dứa phèn chua để ngâm thử mấy cục sạn mà bác sĩ sẵn có để thử nghiệm. Mấy hôm sau, bác sĩ cho hay, quả thật các cục sạn đã mềm ra, bóp dễ vỡ chảy ra nước, ông công nhận dung dịch này có kết quả làm tan vỡ sạn thận.
Sang đến Canada, bà nhạc của tôi cũng có những triệu chứng như trên, đi bệnh viện Jean Talon khám, bác sĩ thấy có sạn to, hẹn một tuần sau mổ. Nhưng về nhà, cụ đau không đi lại được, uống thuốc giảm đau không kết quả. Tôi đề nghị với cụ uống nước dứa phèn chua để giảm đau, còn việc đến ngày hẹn đi mổ thì cứ đi. Cụ bằng lòng.
Trái dứa ở Canada to gấp 2 lần trái dứa Việt Nam, cho nên tôi làm 2 lần. Tôi cho cụ uống 1 ly vào buổi tối, sang hôm sau uống 1 ly, khi đi tiểu, để ý thấy nước tiểu đục nhiều, sau đó cụ đi lại không đau, nói cười vui vẻ. Cụ nghi ngờ không biết sạn có hết không. Tôi nói còn nửa trái dứa nữa, cụ uống tiếp, khi đi tiểu, nước tiểu bình thường không vẩn đục. Ðến ngày hẹn mổ, tôi sợ bác sĩ chỉ nhìn theo kết quả cũ thì chắc chắn cụ sẽ phải bị mổ oan uổng, nên đề nghị với bác sĩ cho khám lại trước khi mổ vì nói rằng mình đã khỏe hết đau như trước. Bác sĩ khám lại rồi cho về, hẹn sẽ thông báo kết quả sau 1 tuần. Chúng tôi đợi 2 tuần không thấy bác sĩ cho biết kết quả, nên đã phone hỏi bác sĩ, ông cho biết không có sạn nên không phải mổ.
Con trai tôi đi làm, có những bạn Canadian bị sạn thận, muốn giới thiệu họ dùng nước dứa phèn chua nhưng sợ có chuyện gì xảy ra mình mang họa, nên chỉ cho họ ra tiệm thuốc Bắc mua loại thuốc thuốc bào chế sẵn của đông y cổ truyền có tên là Thạch Lâm Thông (thạch là đá, lâm là đi tiểu, thông là cho thoát ra ngoài), một hộp 40 viên, thành phần chính của thuốc là 100% Kim tiền thảo (cỏ đồng tiền). Tối uống 5 viên, sáng uống 5 viên, nước tiểu buổi sáng bị vẩn đục. Uống 2 ngày nếu nước tiểu còn vẩn đục mới cần uống hết 1 lọ. Nhiều người uống cũng có kết quả.
Những người bị sạn mật uống 4 ngày hết một lọ, uống 1-2 lọ, đi khám lại cũng thấy mất sạn không cần phải cắt túi mật. Người bình thường như chúng ta, cứ mỗi năm uống một lần, làm sạch sạn trong thận, bàng quang, sạn mật, và nhất là chữa được bệnh viêm tuyến tiền liệt (prostate) cũng có kết quả.
Phụng
55 năm trôi qua từ ngày ký Hiệp Định Genève 20.7.1954 / 2009
Monday 20 July 2009
Nguyễn Hồng Dũng Ph.D
Tôi sinh sau ngày Hiệp định Genève 1954 nên không là chứng nhân lịch sử để có thể viết ra những gì mắt thấy tai nghe như độ Bảy lăm khi thủ đô Sài gòn thất thủ. Dù vậy cũng không có nghĩa là “vô tri bất mộ” để nghe những gì mà nhà đương quyền ra sức tuyên truyền, tô son cho cuộc chiến thần thánh chẳng linh thiêng chút nào. Nỗi niềm đó đã thúc tôi tìm đọc nhiều tư liệu về hồi ký, sử liệu, phóng sự cũng như tạp ghi của những người một thời là chứng nhân hay ít ra cũng cầm súng tham gia trận địa Điện Biên Phủ ngày Bảy tháng Năm năm ấy. Sự hiếu kỳ để biết cái thật trong nét nhìn chính kiến về một biến cố lớn nhất, đau buồn nhất và cũng đáng lên án nhất trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam, có thể đó là lý do u uẩn trong tâm tư để chảy thành dòng chữ hầu chia sẻ quan điểm trong bối cảnh sau hơn nửa thế kỷ đi qua mà chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn là sự lừa bịp kinh hoàng đối với tuổi trẻ Việt Nam.
Huyền thoại về tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Minh chỉ huy cuộc tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ như phần lớn sử sách viết sau năm Bảy lăm hoàn toàn mâu thuẩn với rất nhiều sử gia Trung Quốc, Anh, Pháp, Hoa Kỳ và cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam vì rằng, thắng lợi trận địa này là nhờ Liên Sô tích cực tài trợ súng ống, đạn dược và các tướng của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gồm tướng Vi Quốc Thanh, tướng Mai Gia Sinh, tướng Trần Canh và tướng Lã Quí Ba trực tiếp điều động quân lính hổn hợp Việt Minh và Trung Cộng, dĩ nhiên sự hiện diện của tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó trong vai trò tham mưu trưởng bộ đội Việt Minh gián tiếp hợp tác với Trung Cộng để chiến đấu, và chiến thắng trận địa Điện Biên Phủ nơi lính lê dương đồn trú dẫn đến nội tình nước Pháp chia rẽ khá sâu; nguyên nhân này khiến thủ tướng Joseph Laniel từ chức dọn đường cho nội các Mendes France thuộc đảng Xã Hội Cấp Tiến thay thế với chủ trương rút lui khỏi Đông Dương càng sớm càng tốt.
Tình hình Đông Nam Á bấy giờ là mục tiêu nhuộm đỏ từ điện Cẩm Linh qua đàn em Cộng sản Trung quốc đang mặn nồng tình đồng chí vô sản quốc tế, vì vậy ông Hồ Chí Minh được hai nước đàn anh nổ lực ủng hộ bằng mọi giá để hoàn thành sứ mạng quốc tế quan trọng này, vì thế tình hình bất ổn trong lòng đất nước giữa một bên là cực tả Việt Minh và bên còn lại có khuynh hướng dân tộc tự tồn đã manh nha ý thức trái ngược. Hơn nữa vai trò thực dân Pháp hiện hữu trên lãnh thổ đã giúp cho Việt Minh chỉa mũi dùi kháng chiến chống Pháp khá thuyết phục nhân tâm, dễ che dấu nhiệm vụ quốc tế hóa Cộng Sản Đông Dương nên cán cân “yêu nuớc” nghiêng hẳn về Việt Minh, thúc đẩy hàng triệu thanh niên tham gia kháng chiến với tấm lòng chống ngoại xâm nồng nàn chứ không có ý niệm gì về chủ thuyết Cộng Sản ẩn núp phía sau Đảng Lao Động Việt Nam. Từ ngày 19/8/1945 Cộng Sản cướp chính quyền tại Hà Nội khiến Hoàng đế Bảo Đại thoái vị để hoan hỷ làm dân một nước độc lập. Tinh thần yêu nước khá cao từ mọi tầng lớp vì ai cũng mong nước nhà khỏi ách ngoại xâm. Chính phủ đoàn kết ra đời nhưng ông Hồ Chí Minh tìm cách sát hại những ai không theo chủ nghĩa Cộng Sản khiến Bảo Đại chạy qua Hồng Kông, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam của Việt Nam Quốc Dân Đảng sang Nam Kinh, Nguyễn Hải Thần sang Quảng Tây, Tạ Thu Thâu bị giết và Chính Phủ Liên Hiệp tan rã.
Cao trào đòi độc lập từ các nước thuộc địa Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã khiến cho các chính phủ thực dân đổi chính sách thuộc địa ra chính sách hợp tác và trao trả độc lập cho nhiều quốc gia Á, Phi. Năm 1949 Bảo Đại sang Paris thương thuyết với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol yêu cầu trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 8/3/1949, thỏa ước Elysée được ký kết giữa Bảo Đại và Vincent Auriol, theo đó Việt Nam được độc lập và nằm trong Liên Hiệp Pháp, đến ngày 2/7/1949 Bảo Đại về nước thành lập Chính Phủ Quốc Gia.
Giả thuyết nếu không có trường kỳ kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ xảy ra thì Việt Nam cũng đã được trao trả độc lập bởi chính sách nêu trên mà máu xương của lính Trung Cộng và Việt Nam không đổ ra quá nhiều. Trên thực tế xác lính Trung Cộng chồng chất cho trận địa Điện Biên Phủ đã được nhà nước Cộng Sản Việt Nam chi trả và bồi thường bằng lãnh thổ, lãnh hải đến ngày hôm nay vẫn chưa dứt nợ!.
Để đạt đến hội nghị chấm dứt chiến tranh Đông Dương, Pháp là quốc gia lâm chiến vì muốn rút quân nên mời Anh, Hoa Kỳ và Liên Sô tham dự. Trung Cộng bấy giờ chưa nắm ghế chính thức của Liên Hiệp Quốc nên chỉ là quan sát viên, nhưng sau nhiều lần nài nỉ từ ông Viacheslav Molotov, trưởng đoàn Cộng Sản Liên Sô, ba nước Anh do Anthony Eden làm trưởng đoàn, Hoa Kỳ do Bedell Smith làm trưởng đoàn và Pháp do ông Georges Bidault trưởng đoàn mới đồng ý để Trung Cộng tham gia hội nghị do Chu Ân Lai dẫn đầu tới Genève ngày 26 tháng 4 năm 1954 đặng bàn thảo về Đông Dương. Cũng trong hội nghị này các phe lâm chiến được đề nghị mời tham dự nên phiên họp sau đó một tuần, ngày Hai tháng Năm có mặt các phái đoàn Cam Bốt do Tep Than trưởng đoàn, Lào do Phumi Sananikone trưởng đoàn, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Phạm văn Đồng trưởng đoàn và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do ông Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn.
Cuộc họp chưa ngã ngũ thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc hòa đàm tái nhóm với sự thỏa thuận ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Phạm Văn Đồng là Phó Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm trưởng đoàn đề nghị chia đôi đất nước ở vĩ tuyến mười ba; Hoa Kỳ và Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại làm Quốc trưởng kịch liệt phản đối. Liên Sô, Trung Cộng, Anh và Pháp tán thành ý kiến chia đôi khiến cho toàn dân tại Sài Gòn phẩn nộ bùng phát cuộc biểu tình rầm rộ ngày 26/5/1954 chống lại hành động ngông cuồng của Việt Cộng đang tâm chia cắt Việt Nam.
Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 thì hiệp ước đình chiến soạn thảo xong được gọi là Hiệp Định Genève ký kết bởi Thiếu tướng Henri Delteil, thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và ông Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng năm chữ ký của phái đoàn Anh (Anthony Eden), Liên Sô (Viacheslav Molotov), Trung Cộng (Chu Ân Lai), Cam bốt (Tep Than) và Lào (Phumi Sananikone). Riêng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bác sĩ Trần Văn Đỗ trưởng đoàn và Hoa Kỳ do ông Bedell Smith dẫn đoàn không chấp nhận chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký tên.
Nội dung Hiệp định đình chiến Việt Nam có 6 chương và 47 điều khoảng áp đặt vài điểm quan trọng như sau: Chia đôi hai miền Nam Bắc lấy làng Bohushu sát biên giới Lào Việt đến cửa sông Bến Hải tại tỉnh Quảng Trị làm ranh giới, Quốc Gia Việt Nam phía nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía bắc, hiệu lực thực thi từ ngày 14-8-1954 quy định hai bên rút quân trong vòng 300 ngày. Riêng về việc thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thì bản thông cáo chung ghi nhận cuộc tổng tuyển cử sẽ được nghiên cứu tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của ủy ban quốc tế do những quốc gia ký tên phía trên đảm trách. Rõ ràng điều này đã tố cáo sự bất công, thiên vị của những kẻ đặt bút ký kết mà không thèm đếm xỉa đến nguyện vọng thật sự của nhân dân miền Nam nói riêng và toàn dân tộc Việt nam nói chung vì hai lẽ: thứ nhất là sự việc tự ý chia đôi đất tổ, chủ mưu từ phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Liên Sô, Trung Cộng theo kế hoạch nhuộm đỏ từng phần kiểu tằm ăn dâu cùng thỏa hiệp với Pháp. Thứ hai là cuộc tổng tuyển cử nếu xảy ra năm 1956 chỉ như cách hợp thức hóa toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong ý đồ dâng nạp chủ quyền cho Cộng Sản quốc tế vì phía Quốc Gia Việt Nam chưa đủ thời gian hình thành cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương. Trong các quốc gia liên hệ thì khỏi bàn đến Liên Sô và Trung Cộng, riêng Pháp như đã nói trên rất muốn rút khỏi Đông Dương bởi chủ trương của phái Xã Hội Cấp Tiến còn Anh Quốc thì chỉ tham dự lấy lệ vì vai trò tứ cường trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, riêng Hoa Kỳ đã thấy được điều bất lợi nghiêng về chính quyền phôi thai tại miền Nam, nên dễ bị ông Hồ Chí Minh tóm thâu nhuộm đỏ.
Sở dĩ chúng ta khẳng định sự liên hệ bất khả phân giữa Trung Cộng và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà không sợ sai lầm là vì bằng chứng cụ thể bởi Đảng Lao Động tức là đảng Cộng Sản chủ trương đưa Việt Nam trở lại làm chư hầu cho Trung Cộng qua tờ truyền đơn rãi khắp nơi vào năm 1951. Nhật báo Tiếng Dội số 462 năm thứ 3, đề ngày Thứ Sáu 24 August 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy (Thiếu) năm Tân Mão do Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc đảm trách, Tòa soạn tại 216 Đường Gia Long Saigon, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký tên như sau:
”Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VII
Tổng thư ký Đảng Lao Động Việt Nam,
Số 284/LĐ
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế – có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không?
Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Ðế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu.
Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa hoc, phát minh v.v…
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
Trường Chinh, Tổng thư ký đảng Lao Ðộng”(*)
Từ mối lo này mà chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa kỳ phản đối không ký vào vì theo ý kiến Quốc trưởng Bảo Đại thì Việt Minh sẽ cứ tiếp tục chiến tranh, một cuộc chiến mới sẽ tàn phá toàn quốc…với hy vọng hão huyền đặt một ý thức hệ không hợp với cá tính người Việt Nam (**), còn Ủy ban Quốc Gia An Ninh Hoa Kỳ nhận xét vào ngày 12-8-54 rằng “Thỏa hiệp Genève là một thất bại đã chấp nhận một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa Cộng Sản và có thể đưa đến sự mất toàn thể Đông Nam Á Châu” (***)
Hậu quả tệ hại cho một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến lại bị rơi vào tình huống nô lệ từ ý thức đến hành động khởi đi từ tâm thức phe nhóm, đảng phái hơn quyền lợi quốc gia dân tộc. Hãy bỏ tất cả những định kiến về Quốc-Cộng mà hãy nhìn ở góc độ dân tộc thì sau năm 1954 với hai miền Nam Bắc, những người sinh sau Hiệp Định có thể tìm ra những chứng tích cụ thể qua nhiều tư liệu trung thực:
1/ Phía Quốc Gia Việt Nam mà sau này trở thành Việt Nam Cộng Hòa chưa có bằng cớ nào chứng tỏ đem Việt Nam dâng hiến hoặc sang nhượng cho bất cứ một quốc gia ngoại bang dù từng là đồng minh với Hoa Kỳ, Úc, Canada… dù vậy họ không hề tuân thủ ý kiến của ngoại nhân làm tổn thương dân tộc. Chưa có một tội danh nào gọi là bán nước cầu vinh gán cho phía chính phủ miền Nam kể cả cảng Cam Ranh, Chu Lai, Long Bình là những nơi cho Hoa Kỳ thuê mướn, khi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam thì nơi ấy trở lại chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa từ 1973-1975. Đảo Hoàng Sa là đất của nam Việt Nam bị Trung Cộng xâm lăng năm 1974, Hải quân Việt Nam chống đỡ và nhiều chiến sĩ hy sinh, cuối cùng bị mất vì thua chứ không phải dâng tặng cho ngoại bang. Ngày 30/4/1975 miền Nam sụp đổ vì thiếu đạn dược, quân vụ dẫn đến việc cựu Đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống vi hiến tuyên bố đầu hàng.
2/ Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã có nhiều bằng chứng thể hiện ước mơ của Đảng Cộng Sản đưa Việt Nam trở thành một chư hầu cho khối Cộng Sản Quốc Tế theo tờ truyền đơn kêu gọi dân Việt Nam làm chư hầu Trung Cộng nêu trên. Hành động bán nước được thể hiện từ năm 1958 do ông Phạm văn Đồng ký công hàm chấp nhận Hoàng Sa và Trường Sa KHÔNG phải là của Việt Nam. Hành động này tái diễn vào năm 1999 khi ký kết hiệp định biên giới Trung Việt để hợp thức hóa Trung Cộng chiếm đóng biên giới phía Bắc và vùng biển vịnh Bắc bộ. Cũng từ năm này thì thác Bản Giốc và Ải Nam Quan KHÔNG còn thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, chỉ vì muốn thực hiện cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng mọi giá mà biết bao tang thương, sầu khổ gieo rắc cho cả hai miền. Bao vong linh oan khiên tức tưởi chết trong phong trào giảm tô, bài phong, cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, xét lại, chống đảng, tết Mậu Thân, pháo Cai Lậy, chiến tranh ở Lào, ở Cam bốt, dựng lên mặt trận giải phóng miền Nam, chiếm cứ Sài Gòn, tập trung quân cán chính miền Nam lao động khổ sai, đánh tư sản, ép buộc di dân kinh tế mới để rồi hàng triệu người liều mình bỏ nước vượt biên, vượt biển tìm tự do bị chết vẫn chưa siêu thoát.
Chưa hết, ngày nay còn biết bao nổi nhục nhằn mà con dân Việt Nam phải gánh chịu như sự oan ức của ngư dân Việt bị Trung Cộng hành hung, sát hại ở biển đông; Trường Sa và Hoàng Sa thành Tam Sa ô nhục, Bauxite Tây nguyên bị lợi dụng khai thác để hợp thức số dân Trung Cộng tràn vào Việt Nam như Tây Tạng, Tân Cương. Hối lộ, mại dâm, bán tuổi trẻ thanh xuân ra ngoại quốc, hạ nhân phẩm phụ nữ thua xa thời thực dân phong kiến khi hàng trăm gái trinh cởi truồng cho vài đứa ngoại lai lựa vợ, làm hầu. Văn hóa Việt bỗng chốc sượng sùng, đạo đức luân thường chỉ như bọt nước, thần tượng cá nhân, tôn sùng lãnh tụ và lừa lọc, dối trá để sống dưới vòm trời Chủ Nghĩa Xã Hội thơm tho!
Giờ đây sau 55 năm trôi qua chúng ta được gì và mất gì thì tự trong tâm mỗi người nhận biết, có điều người dân ở hai phía Bắc Nam chưa từng được quyết định vận mạng tương lai chính trị cho mình, sau bao lần can qua hoàn toàn do các thế lực ngoại bang mượn tay định đoạt, Pháp và Việt Minh đẻ ra Hiệp định Genève chia đôi đất nước hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng chân chính của người Việt Nam. Đối với chúng ta thì 55 năm vừa tròn một kiếp nhân sinh nhưng lịch sử dân tộc lại là mốc thời gian trường cửu. Hậu thế sẽ học được gì qua những hành động mang tính cách cục bộ, phe nhóm khiến đất trời nghiêng ngữa tái tê. Bánh xe lịch sử cứ quay đều nhưng mong rằng mai sau đừng ai theo vết cũ; chia sẻ điều này với hy vọng sự bừng tỉnh lớp thế hệ tương lai nhìn đúng hướng lịch sử để thể hiện đứng đắn tình tự dân tộc, góp phần xây dựng lại những gì đổ nát và tìm cách tự quyết định tương lai vận mạng của đất nước, đồng thời chống lại âm mưu bành trướng của bá quyền Bắc kinh. Nguyện xin hồn thiêng sông núi phù hộ cho chúng ta, lớp người sinh sau cuộc chiến luôn tỉnh thức rằng, chỉ có người Việt chân chính mới yêu thương và bảo vệ đất nước mình mà thôi, đừng ỷ lại hay trông chờ ngoại bang ra tay cứu rỗi.
Nguyễn Hồng Dũng
20/7/2009,
Kỷ niệm 30 năm ngày quốc tế cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam
và 55 năm Hiệp định Geneve chia đôi đất nước.
Tài liệu tham khảo:
-U.S. Congress, Senate, Committee on Foreign Relations, 90th Congress, 1st Session, Background Information Relating to Southeast Asia and Vietnam (3d Revised Edition) (Washington, DC: U.S. Government Printing Office, July 1967), pp. 50-62
-Negotiations and Vietnam: A Case Study of the 1954 Geneva Conference by Melvin Gurtov.
-Việt Sử Khảo Luận: Hoàng Cơ Nghị
-Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp.
-1945-1964:Việc Từng Ngày. Hai Mươi Măm Qua: Đoàn Thêm.
-Vietnam War – Ngo Dinh Diem on Geneva Agreement of 1954
-(*) Nhật báo Tiếng Dội 1951, Thư Viện tiếng Việt, British Museum, London.
-(**) Le Dragon D’Annam Bảo Đại, trang dịch của tác giả từ version English: The Dragon of VN
-(***) Hồ sơ Mật Pentagon, USA 1950s.
Nguyễn Hồng Dũng Ph.D
Tôi sinh sau ngày Hiệp định Genève 1954 nên không là chứng nhân lịch sử để có thể viết ra những gì mắt thấy tai nghe như độ Bảy lăm khi thủ đô Sài gòn thất thủ. Dù vậy cũng không có nghĩa là “vô tri bất mộ” để nghe những gì mà nhà đương quyền ra sức tuyên truyền, tô son cho cuộc chiến thần thánh chẳng linh thiêng chút nào. Nỗi niềm đó đã thúc tôi tìm đọc nhiều tư liệu về hồi ký, sử liệu, phóng sự cũng như tạp ghi của những người một thời là chứng nhân hay ít ra cũng cầm súng tham gia trận địa Điện Biên Phủ ngày Bảy tháng Năm năm ấy. Sự hiếu kỳ để biết cái thật trong nét nhìn chính kiến về một biến cố lớn nhất, đau buồn nhất và cũng đáng lên án nhất trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam, có thể đó là lý do u uẩn trong tâm tư để chảy thành dòng chữ hầu chia sẻ quan điểm trong bối cảnh sau hơn nửa thế kỷ đi qua mà chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn là sự lừa bịp kinh hoàng đối với tuổi trẻ Việt Nam.
Huyền thoại về tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Minh chỉ huy cuộc tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ như phần lớn sử sách viết sau năm Bảy lăm hoàn toàn mâu thuẩn với rất nhiều sử gia Trung Quốc, Anh, Pháp, Hoa Kỳ và cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam vì rằng, thắng lợi trận địa này là nhờ Liên Sô tích cực tài trợ súng ống, đạn dược và các tướng của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gồm tướng Vi Quốc Thanh, tướng Mai Gia Sinh, tướng Trần Canh và tướng Lã Quí Ba trực tiếp điều động quân lính hổn hợp Việt Minh và Trung Cộng, dĩ nhiên sự hiện diện của tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó trong vai trò tham mưu trưởng bộ đội Việt Minh gián tiếp hợp tác với Trung Cộng để chiến đấu, và chiến thắng trận địa Điện Biên Phủ nơi lính lê dương đồn trú dẫn đến nội tình nước Pháp chia rẽ khá sâu; nguyên nhân này khiến thủ tướng Joseph Laniel từ chức dọn đường cho nội các Mendes France thuộc đảng Xã Hội Cấp Tiến thay thế với chủ trương rút lui khỏi Đông Dương càng sớm càng tốt.
Tình hình Đông Nam Á bấy giờ là mục tiêu nhuộm đỏ từ điện Cẩm Linh qua đàn em Cộng sản Trung quốc đang mặn nồng tình đồng chí vô sản quốc tế, vì vậy ông Hồ Chí Minh được hai nước đàn anh nổ lực ủng hộ bằng mọi giá để hoàn thành sứ mạng quốc tế quan trọng này, vì thế tình hình bất ổn trong lòng đất nước giữa một bên là cực tả Việt Minh và bên còn lại có khuynh hướng dân tộc tự tồn đã manh nha ý thức trái ngược. Hơn nữa vai trò thực dân Pháp hiện hữu trên lãnh thổ đã giúp cho Việt Minh chỉa mũi dùi kháng chiến chống Pháp khá thuyết phục nhân tâm, dễ che dấu nhiệm vụ quốc tế hóa Cộng Sản Đông Dương nên cán cân “yêu nuớc” nghiêng hẳn về Việt Minh, thúc đẩy hàng triệu thanh niên tham gia kháng chiến với tấm lòng chống ngoại xâm nồng nàn chứ không có ý niệm gì về chủ thuyết Cộng Sản ẩn núp phía sau Đảng Lao Động Việt Nam. Từ ngày 19/8/1945 Cộng Sản cướp chính quyền tại Hà Nội khiến Hoàng đế Bảo Đại thoái vị để hoan hỷ làm dân một nước độc lập. Tinh thần yêu nước khá cao từ mọi tầng lớp vì ai cũng mong nước nhà khỏi ách ngoại xâm. Chính phủ đoàn kết ra đời nhưng ông Hồ Chí Minh tìm cách sát hại những ai không theo chủ nghĩa Cộng Sản khiến Bảo Đại chạy qua Hồng Kông, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam của Việt Nam Quốc Dân Đảng sang Nam Kinh, Nguyễn Hải Thần sang Quảng Tây, Tạ Thu Thâu bị giết và Chính Phủ Liên Hiệp tan rã.
Cao trào đòi độc lập từ các nước thuộc địa Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã khiến cho các chính phủ thực dân đổi chính sách thuộc địa ra chính sách hợp tác và trao trả độc lập cho nhiều quốc gia Á, Phi. Năm 1949 Bảo Đại sang Paris thương thuyết với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol yêu cầu trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 8/3/1949, thỏa ước Elysée được ký kết giữa Bảo Đại và Vincent Auriol, theo đó Việt Nam được độc lập và nằm trong Liên Hiệp Pháp, đến ngày 2/7/1949 Bảo Đại về nước thành lập Chính Phủ Quốc Gia.
Giả thuyết nếu không có trường kỳ kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ xảy ra thì Việt Nam cũng đã được trao trả độc lập bởi chính sách nêu trên mà máu xương của lính Trung Cộng và Việt Nam không đổ ra quá nhiều. Trên thực tế xác lính Trung Cộng chồng chất cho trận địa Điện Biên Phủ đã được nhà nước Cộng Sản Việt Nam chi trả và bồi thường bằng lãnh thổ, lãnh hải đến ngày hôm nay vẫn chưa dứt nợ!.
Để đạt đến hội nghị chấm dứt chiến tranh Đông Dương, Pháp là quốc gia lâm chiến vì muốn rút quân nên mời Anh, Hoa Kỳ và Liên Sô tham dự. Trung Cộng bấy giờ chưa nắm ghế chính thức của Liên Hiệp Quốc nên chỉ là quan sát viên, nhưng sau nhiều lần nài nỉ từ ông Viacheslav Molotov, trưởng đoàn Cộng Sản Liên Sô, ba nước Anh do Anthony Eden làm trưởng đoàn, Hoa Kỳ do Bedell Smith làm trưởng đoàn và Pháp do ông Georges Bidault trưởng đoàn mới đồng ý để Trung Cộng tham gia hội nghị do Chu Ân Lai dẫn đầu tới Genève ngày 26 tháng 4 năm 1954 đặng bàn thảo về Đông Dương. Cũng trong hội nghị này các phe lâm chiến được đề nghị mời tham dự nên phiên họp sau đó một tuần, ngày Hai tháng Năm có mặt các phái đoàn Cam Bốt do Tep Than trưởng đoàn, Lào do Phumi Sananikone trưởng đoàn, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Phạm văn Đồng trưởng đoàn và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do ông Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn.
Cuộc họp chưa ngã ngũ thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc hòa đàm tái nhóm với sự thỏa thuận ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Phạm Văn Đồng là Phó Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm trưởng đoàn đề nghị chia đôi đất nước ở vĩ tuyến mười ba; Hoa Kỳ và Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại làm Quốc trưởng kịch liệt phản đối. Liên Sô, Trung Cộng, Anh và Pháp tán thành ý kiến chia đôi khiến cho toàn dân tại Sài Gòn phẩn nộ bùng phát cuộc biểu tình rầm rộ ngày 26/5/1954 chống lại hành động ngông cuồng của Việt Cộng đang tâm chia cắt Việt Nam.
Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 thì hiệp ước đình chiến soạn thảo xong được gọi là Hiệp Định Genève ký kết bởi Thiếu tướng Henri Delteil, thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và ông Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng năm chữ ký của phái đoàn Anh (Anthony Eden), Liên Sô (Viacheslav Molotov), Trung Cộng (Chu Ân Lai), Cam bốt (Tep Than) và Lào (Phumi Sananikone). Riêng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bác sĩ Trần Văn Đỗ trưởng đoàn và Hoa Kỳ do ông Bedell Smith dẫn đoàn không chấp nhận chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký tên.
Nội dung Hiệp định đình chiến Việt Nam có 6 chương và 47 điều khoảng áp đặt vài điểm quan trọng như sau: Chia đôi hai miền Nam Bắc lấy làng Bohushu sát biên giới Lào Việt đến cửa sông Bến Hải tại tỉnh Quảng Trị làm ranh giới, Quốc Gia Việt Nam phía nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía bắc, hiệu lực thực thi từ ngày 14-8-1954 quy định hai bên rút quân trong vòng 300 ngày. Riêng về việc thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thì bản thông cáo chung ghi nhận cuộc tổng tuyển cử sẽ được nghiên cứu tổ chức vào tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của ủy ban quốc tế do những quốc gia ký tên phía trên đảm trách. Rõ ràng điều này đã tố cáo sự bất công, thiên vị của những kẻ đặt bút ký kết mà không thèm đếm xỉa đến nguyện vọng thật sự của nhân dân miền Nam nói riêng và toàn dân tộc Việt nam nói chung vì hai lẽ: thứ nhất là sự việc tự ý chia đôi đất tổ, chủ mưu từ phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Liên Sô, Trung Cộng theo kế hoạch nhuộm đỏ từng phần kiểu tằm ăn dâu cùng thỏa hiệp với Pháp. Thứ hai là cuộc tổng tuyển cử nếu xảy ra năm 1956 chỉ như cách hợp thức hóa toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong ý đồ dâng nạp chủ quyền cho Cộng Sản quốc tế vì phía Quốc Gia Việt Nam chưa đủ thời gian hình thành cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương. Trong các quốc gia liên hệ thì khỏi bàn đến Liên Sô và Trung Cộng, riêng Pháp như đã nói trên rất muốn rút khỏi Đông Dương bởi chủ trương của phái Xã Hội Cấp Tiến còn Anh Quốc thì chỉ tham dự lấy lệ vì vai trò tứ cường trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, riêng Hoa Kỳ đã thấy được điều bất lợi nghiêng về chính quyền phôi thai tại miền Nam, nên dễ bị ông Hồ Chí Minh tóm thâu nhuộm đỏ.
Sở dĩ chúng ta khẳng định sự liên hệ bất khả phân giữa Trung Cộng và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà không sợ sai lầm là vì bằng chứng cụ thể bởi Đảng Lao Động tức là đảng Cộng Sản chủ trương đưa Việt Nam trở lại làm chư hầu cho Trung Cộng qua tờ truyền đơn rãi khắp nơi vào năm 1951. Nhật báo Tiếng Dội số 462 năm thứ 3, đề ngày Thứ Sáu 24 August 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy (Thiếu) năm Tân Mão do Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc đảm trách, Tòa soạn tại 216 Đường Gia Long Saigon, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký tên như sau:
”Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VII
Tổng thư ký Đảng Lao Động Việt Nam,
Số 284/LĐ
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế – có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không?
Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Ðế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu.
Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa hoc, phát minh v.v…
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
Trường Chinh, Tổng thư ký đảng Lao Ðộng”(*)
Từ mối lo này mà chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa kỳ phản đối không ký vào vì theo ý kiến Quốc trưởng Bảo Đại thì Việt Minh sẽ cứ tiếp tục chiến tranh, một cuộc chiến mới sẽ tàn phá toàn quốc…với hy vọng hão huyền đặt một ý thức hệ không hợp với cá tính người Việt Nam (**), còn Ủy ban Quốc Gia An Ninh Hoa Kỳ nhận xét vào ngày 12-8-54 rằng “Thỏa hiệp Genève là một thất bại đã chấp nhận một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa Cộng Sản và có thể đưa đến sự mất toàn thể Đông Nam Á Châu” (***)
Hậu quả tệ hại cho một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến lại bị rơi vào tình huống nô lệ từ ý thức đến hành động khởi đi từ tâm thức phe nhóm, đảng phái hơn quyền lợi quốc gia dân tộc. Hãy bỏ tất cả những định kiến về Quốc-Cộng mà hãy nhìn ở góc độ dân tộc thì sau năm 1954 với hai miền Nam Bắc, những người sinh sau Hiệp Định có thể tìm ra những chứng tích cụ thể qua nhiều tư liệu trung thực:
1/ Phía Quốc Gia Việt Nam mà sau này trở thành Việt Nam Cộng Hòa chưa có bằng cớ nào chứng tỏ đem Việt Nam dâng hiến hoặc sang nhượng cho bất cứ một quốc gia ngoại bang dù từng là đồng minh với Hoa Kỳ, Úc, Canada… dù vậy họ không hề tuân thủ ý kiến của ngoại nhân làm tổn thương dân tộc. Chưa có một tội danh nào gọi là bán nước cầu vinh gán cho phía chính phủ miền Nam kể cả cảng Cam Ranh, Chu Lai, Long Bình là những nơi cho Hoa Kỳ thuê mướn, khi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam thì nơi ấy trở lại chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa từ 1973-1975. Đảo Hoàng Sa là đất của nam Việt Nam bị Trung Cộng xâm lăng năm 1974, Hải quân Việt Nam chống đỡ và nhiều chiến sĩ hy sinh, cuối cùng bị mất vì thua chứ không phải dâng tặng cho ngoại bang. Ngày 30/4/1975 miền Nam sụp đổ vì thiếu đạn dược, quân vụ dẫn đến việc cựu Đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống vi hiến tuyên bố đầu hàng.
2/ Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã có nhiều bằng chứng thể hiện ước mơ của Đảng Cộng Sản đưa Việt Nam trở thành một chư hầu cho khối Cộng Sản Quốc Tế theo tờ truyền đơn kêu gọi dân Việt Nam làm chư hầu Trung Cộng nêu trên. Hành động bán nước được thể hiện từ năm 1958 do ông Phạm văn Đồng ký công hàm chấp nhận Hoàng Sa và Trường Sa KHÔNG phải là của Việt Nam. Hành động này tái diễn vào năm 1999 khi ký kết hiệp định biên giới Trung Việt để hợp thức hóa Trung Cộng chiếm đóng biên giới phía Bắc và vùng biển vịnh Bắc bộ. Cũng từ năm này thì thác Bản Giốc và Ải Nam Quan KHÔNG còn thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, chỉ vì muốn thực hiện cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng mọi giá mà biết bao tang thương, sầu khổ gieo rắc cho cả hai miền. Bao vong linh oan khiên tức tưởi chết trong phong trào giảm tô, bài phong, cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, xét lại, chống đảng, tết Mậu Thân, pháo Cai Lậy, chiến tranh ở Lào, ở Cam bốt, dựng lên mặt trận giải phóng miền Nam, chiếm cứ Sài Gòn, tập trung quân cán chính miền Nam lao động khổ sai, đánh tư sản, ép buộc di dân kinh tế mới để rồi hàng triệu người liều mình bỏ nước vượt biên, vượt biển tìm tự do bị chết vẫn chưa siêu thoát.
Chưa hết, ngày nay còn biết bao nổi nhục nhằn mà con dân Việt Nam phải gánh chịu như sự oan ức của ngư dân Việt bị Trung Cộng hành hung, sát hại ở biển đông; Trường Sa và Hoàng Sa thành Tam Sa ô nhục, Bauxite Tây nguyên bị lợi dụng khai thác để hợp thức số dân Trung Cộng tràn vào Việt Nam như Tây Tạng, Tân Cương. Hối lộ, mại dâm, bán tuổi trẻ thanh xuân ra ngoại quốc, hạ nhân phẩm phụ nữ thua xa thời thực dân phong kiến khi hàng trăm gái trinh cởi truồng cho vài đứa ngoại lai lựa vợ, làm hầu. Văn hóa Việt bỗng chốc sượng sùng, đạo đức luân thường chỉ như bọt nước, thần tượng cá nhân, tôn sùng lãnh tụ và lừa lọc, dối trá để sống dưới vòm trời Chủ Nghĩa Xã Hội thơm tho!
Giờ đây sau 55 năm trôi qua chúng ta được gì và mất gì thì tự trong tâm mỗi người nhận biết, có điều người dân ở hai phía Bắc Nam chưa từng được quyết định vận mạng tương lai chính trị cho mình, sau bao lần can qua hoàn toàn do các thế lực ngoại bang mượn tay định đoạt, Pháp và Việt Minh đẻ ra Hiệp định Genève chia đôi đất nước hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng chân chính của người Việt Nam. Đối với chúng ta thì 55 năm vừa tròn một kiếp nhân sinh nhưng lịch sử dân tộc lại là mốc thời gian trường cửu. Hậu thế sẽ học được gì qua những hành động mang tính cách cục bộ, phe nhóm khiến đất trời nghiêng ngữa tái tê. Bánh xe lịch sử cứ quay đều nhưng mong rằng mai sau đừng ai theo vết cũ; chia sẻ điều này với hy vọng sự bừng tỉnh lớp thế hệ tương lai nhìn đúng hướng lịch sử để thể hiện đứng đắn tình tự dân tộc, góp phần xây dựng lại những gì đổ nát và tìm cách tự quyết định tương lai vận mạng của đất nước, đồng thời chống lại âm mưu bành trướng của bá quyền Bắc kinh. Nguyện xin hồn thiêng sông núi phù hộ cho chúng ta, lớp người sinh sau cuộc chiến luôn tỉnh thức rằng, chỉ có người Việt chân chính mới yêu thương và bảo vệ đất nước mình mà thôi, đừng ỷ lại hay trông chờ ngoại bang ra tay cứu rỗi.
Nguyễn Hồng Dũng
20/7/2009,
Kỷ niệm 30 năm ngày quốc tế cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam
và 55 năm Hiệp định Geneve chia đôi đất nước.
Tài liệu tham khảo:
-U.S. Congress, Senate, Committee on Foreign Relations, 90th Congress, 1st Session, Background Information Relating to Southeast Asia and Vietnam (3d Revised Edition) (Washington, DC: U.S. Government Printing Office, July 1967), pp. 50-62
-Negotiations and Vietnam: A Case Study of the 1954 Geneva Conference by Melvin Gurtov.
-Việt Sử Khảo Luận: Hoàng Cơ Nghị
-Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp.
-1945-1964:Việc Từng Ngày. Hai Mươi Măm Qua: Đoàn Thêm.
-Vietnam War – Ngo Dinh Diem on Geneva Agreement of 1954
-(*) Nhật báo Tiếng Dội 1951, Thư Viện tiếng Việt, British Museum, London.
-(**) Le Dragon D’Annam Bảo Đại, trang dịch của tác giả từ version English: The Dragon of VN
-(***) Hồ sơ Mật Pentagon, USA 1950s.
samedi 18 juillet 2009
Nhà báo Du Miên nói về sinh nhật 11 của Thư Viện Việt Nam
Friday, July 17, 2009
Phóng ảnh con dấu và chữ ký của Quốc Trưởng Bảo Ðại đang được trưng tại Thư Viện Việt Nam
Phóng ảnh con dấu và chữ ký Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Phóng ảnh con dấu và chữ ký Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ðinh Quang Anh Thái/Người Việt
LTS: Vào lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật, 19 tháng Bảy, Thư Viện Việt Nam sẽ mừng sinh nhật thứ 11. Nhân dịp này, một trong 5 sáng lập viên của Thư Viện Việt Nam là nhà báo Du Miên đến thăm tòa soạn Người Việt và dành cho Ðinh Quang Anh Thái cuộc phỏng vấn sau đây.
-ÐQAThái: Thưa anh, Thư Viện Việt Nam chào đời trong bối cảnh nào?
-Nhà báo Du Miên: Năm 1999, anh em chúng tôi gồm 5 người là nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, Bác Sĩ Võ Trọng Di, nhà văn Trầm Lam Giang, nhà văn Nguyễn Ðức Lập và tôi thấy có một nhu cầu là các em trẻ muốn tìm hiểu về lịch sử và văn hóa Việt và muốn có một nơi để sinh hoạt. Anh em chúng tôi đa số đều sinh hoạt Hướng Ðạo, các em trẻ cũng trong Hướng Ðạo, các em nêu đề nghị đó; chúng tôi bàn luận với nhau rồi quyết định thành lập Thư Viện Việt Nam.
-ÐQAThái: Sinh hoạt những ngày đầu tiên của Thư Viện Việt Nam ra sao?
-Nhà báo Du Miên: Tháng Sáu năm 1999 chúng tôi bắt tay vào việc thành lập thư viện. Ba tháng sau thư viện mới chính thức hoạt động. Thoạt đầu, sách báo không có nhiều chỉ có mấy trăm quyển thôi. Nhưng không ngờ chỉ trong vòng ba tháng sau khi thư viện chính thức mở cửa, số lượng sách tăng vọt lên hơn 5 ngàn cuốn. Một chuyện buồn với anh em chúng tôi là thư viện ra đời được 4 tháng thì anh Trầm Tử Thiêng mất.
-ÐQAThái: Nguồn sách khởi đầu từ đâu mà thư viện có, thưa anh? Nhân dịp Thư Viện/Bảo Tàng Viện Việt Nam mừng sinh nhật lần thứ 11, 200 khách quý đến tham dự tiệc mừng sinh nhật sẽ được tặng một bộ CD sách “Gia Ðịnh Thành Thông Chí” của Thượng Thư Trịnh Hoài Ðức. Những người khác muốn nhận bộ sách cũng có thể liên lạc với Thư Viện Việt Nam để biết thêm chi tiết. Ðịa chỉ của Thư Viện là: 10872 Westminster, Westminster, CA # 214-215, Garden Grove, CA 92843; số điện thoại: (714) 638-8448; hoặc vào trang web: www.vnlibraryonline.com.
-Nhà báo Du Miên: Từ ngày thành lập đến bây giờ, tất cả sách báo và những gì hiện thư viện có, đều do đồng bào đóng góp. Anh em chúng tôi lúc nào cũng tâm niệm rằng, đây là “Thư viện của chúng ta.” Nghĩa là, thư viện này của đồng bào, chúng tôi mở cửa hàng ngày để đón tiếp đồng bào và để cho đồng bào chứ không phải thư viện của một nhóm nào.
-ÐQAThái: Hiện nay, Thư Viện Việt Nam có tổng cộng bao nhiêu cuốn sách và thuộc những loại nào?
-Nhà báo Du Miên: Về số lượng, chúng tôi có 55 đến 60 ngàn “đầu” sách, trong đó đa số là loại sách nghiên cứu sử. Nét đặc biệt của thư viện là sưu tầm và tồn giữ những sách mà vì hoàn cảnh đất nước, hoàn cảnh lịch sử bị mất đi hay bị tiêu hủy. Thư viện may mắn có nhiều cuốn sách xuất bản trước năm 1975 ở miền Mam và sau năm 1975 ở hải ngoại. Những cuốn sách liên quan đến chế độ hiện nay tại quê nhà chúng ta - dù là do bạn mình in ở Việt Nam - chúng tôi cũng không để trong thư viện vì thư viện này của đồng bào chúng ta tại hải ngoại.
-ÐQAThái: Tiền điều hành thư viện từ đâu ra ạ?
-Nhà báo Du Miên: Mỗi tháng, chi tiêu tổng công của thư viện là 2,450 Mỹ kim. Số tiền này do một số bạn bè và mạnh thường quân khoảng 40 người đóng góp; nếu thiếu thì anh em sáng lập viên đưa lưng ra gánh.
-ÐQAThái: Ðồng bào đến thư viện Việt Nam đọc sách có phải đóng góp gì không?
-Nhà báo Du Miên: Hoàn toàn miễn phí. Thậm chí chúng tôi có phòng hội 120 chỗ ngồi dành để các tổ chức, hội đoàn và anh em văn nghệ sĩ đến sinh hoạt hoàn toàn miễn phí. Chỉ có điều phòng hội không có máy lạnh nên mùa Hè nóng lắm thành ra ít người mượn để sinh hoạt.
-ÐQAThái: Những người đến thư viện thuộc lứa tuổi nào, thưa anh?
-Nhà báo Du Miên: Ðộc giả thường trực thuộc lớp lớn tuổi. Nhưng buổi chiều và nhất là Thứ Bẩy, các em trẻ thường đến tìm đọc những loại sách nói về lịch sử Việt Nam và nếu các em có điều gì không hiểu thì đã có một số anh chị lớn tuổi của thư viện hướng dẫn cho các em.
-ÐQAThái: Mười năm qua của Thư Viện Việt Nam, những thành quả nào những người chủ trương hài lòng nhất?
-Nhà báo Du Miên: Mười năm, anh em chúng tôi cố gắng xây dựng thư viện để đồng bào đến đọc sách. Bây giờ, dù những anh em chủ trương ban đầu có nằm xuống, thư viện vẫn tiếp tục sinh hoạt vì đã có lớp trẻ hơn kế thừa. Có ba công trình là tâm huyết của anh em trong 10 năm qua.
Công trình thứ nhất là Bộ Cổ Tích Việt Nam được xuất bản để phát hoàn toàn miễn phí cho tất cả các trung tâm Việt ngữ. Tiền in cuốn này do bạn hữu và các mạnh thường quân yểm trợ.
Công trình thứ hai là dịch được một cuốn sách mà từ 500 năm qua người Việt Nam mơ ước có để đọc chứ đừng nói là dịch ra tiếng Việt. Từ cụ Nhượng Tống đến Sử Quán Triều Nguyễn đều nghe nói đến cuốn sách đó chư chưa hề trông thấy. Ðó là cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, nói về gốc gác Việt tộc. Tác giả cuốn sách là sử gia Âu Ðại Nhậm viết thời nhà Minh 500 năm trước.
Người Tầu công nhận giá trị lịch sử của cuốn sách và xếp vào Tứ Khố Toàn Thư. Chúng tôi may mắn có bản chính thức của cuốn sách và anh em trong ban tu thư của Thư Viện Việt Nam như anh Trần Lam Giang, anh Nguyễn Ðức Lập cùng các cụ rất giỏi chữ Nho đã dịch cuốn này và xuất bản năm 2006.
Công trình thứ ba là cuốn Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông và tôi là tác gỉả. Trong cuốn sách này, tôi đã chứng minh được ông Khổng Tử đã lấy ca dao tục ngữ Việt Nam để đưa vào Kinh Thi rồi dạy cho người Tàu về luân lý và đạo đức. Tôi còn chứng minh bằng Sử Ký Tư Mã Thiên, rằng ông tổ của nhà Chu có 3 con trai thì ông đã cho 2 người con trai lớn qua Việt Nam cắt tóc, xâm mình để học văn hóa Việt Nam rồi đem về Tàu dạy cho dân Tàu.
-ÐQAThái: Những dự án tương lai của Thư Viện Việt Nam là gì ạ?
-Nhà báo Du Miên: Nhằm giúp lớp trẻ Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ không giỏi tiếng mẹ đẻ hiểu được văn hóa Việt Nam, hiện nay chúng tôi đang tiếp tục việc dịch Bộ Cổ Tích Việt Nam và cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí sang Anh ngữ. Riêng cuốn Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông, chúng tôi cần hơn hết dịch sang Anh ngữ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện đang bị người Tàu ăn hiếp trong khi chế độ Hà Nội khiếp nhược trước Bắc phương. Dịch cuốn này sang tiếng Anh để lớp trẻ biết rằng văn hóa, sức mạnh của mình cao hơn người Tàu và không có gì khiến chúng ta phải sợ người Tàu; đồng thời cho Tây phương biết văn hóa Ðông phương phát xuất từ Việt Nam chứ không phải từ Trung Hoa như xưa nay người ta lầm tưởng.
-ÐQAThái: Câu chót xin hỏi anh, muốn tìm hiểu thêm về Thư Viện Việt Nam, độc giả có thể tìm ở đâu?
-Nhà báo Du Miên: Webside của Thư Viện Việt Nam là: www.vnlibraryonline.com, kính mời đồng hương vào xem.
-ÐQAThái: Cám ơn nhà báo Du Miên đã trả lời phỏng vấn của Người Việt.
Phóng ảnh con dấu và chữ ký của Quốc Trưởng Bảo Ðại đang được trưng tại Thư Viện Việt Nam
Phóng ảnh con dấu và chữ ký Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Phóng ảnh con dấu và chữ ký Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ðinh Quang Anh Thái/Người Việt
LTS: Vào lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật, 19 tháng Bảy, Thư Viện Việt Nam sẽ mừng sinh nhật thứ 11. Nhân dịp này, một trong 5 sáng lập viên của Thư Viện Việt Nam là nhà báo Du Miên đến thăm tòa soạn Người Việt và dành cho Ðinh Quang Anh Thái cuộc phỏng vấn sau đây.
-ÐQAThái: Thưa anh, Thư Viện Việt Nam chào đời trong bối cảnh nào?
-Nhà báo Du Miên: Năm 1999, anh em chúng tôi gồm 5 người là nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, Bác Sĩ Võ Trọng Di, nhà văn Trầm Lam Giang, nhà văn Nguyễn Ðức Lập và tôi thấy có một nhu cầu là các em trẻ muốn tìm hiểu về lịch sử và văn hóa Việt và muốn có một nơi để sinh hoạt. Anh em chúng tôi đa số đều sinh hoạt Hướng Ðạo, các em trẻ cũng trong Hướng Ðạo, các em nêu đề nghị đó; chúng tôi bàn luận với nhau rồi quyết định thành lập Thư Viện Việt Nam.
-ÐQAThái: Sinh hoạt những ngày đầu tiên của Thư Viện Việt Nam ra sao?
-Nhà báo Du Miên: Tháng Sáu năm 1999 chúng tôi bắt tay vào việc thành lập thư viện. Ba tháng sau thư viện mới chính thức hoạt động. Thoạt đầu, sách báo không có nhiều chỉ có mấy trăm quyển thôi. Nhưng không ngờ chỉ trong vòng ba tháng sau khi thư viện chính thức mở cửa, số lượng sách tăng vọt lên hơn 5 ngàn cuốn. Một chuyện buồn với anh em chúng tôi là thư viện ra đời được 4 tháng thì anh Trầm Tử Thiêng mất.
-ÐQAThái: Nguồn sách khởi đầu từ đâu mà thư viện có, thưa anh? Nhân dịp Thư Viện/Bảo Tàng Viện Việt Nam mừng sinh nhật lần thứ 11, 200 khách quý đến tham dự tiệc mừng sinh nhật sẽ được tặng một bộ CD sách “Gia Ðịnh Thành Thông Chí” của Thượng Thư Trịnh Hoài Ðức. Những người khác muốn nhận bộ sách cũng có thể liên lạc với Thư Viện Việt Nam để biết thêm chi tiết. Ðịa chỉ của Thư Viện là: 10872 Westminster, Westminster, CA # 214-215, Garden Grove, CA 92843; số điện thoại: (714) 638-8448; hoặc vào trang web: www.vnlibraryonline.com.
-Nhà báo Du Miên: Từ ngày thành lập đến bây giờ, tất cả sách báo và những gì hiện thư viện có, đều do đồng bào đóng góp. Anh em chúng tôi lúc nào cũng tâm niệm rằng, đây là “Thư viện của chúng ta.” Nghĩa là, thư viện này của đồng bào, chúng tôi mở cửa hàng ngày để đón tiếp đồng bào và để cho đồng bào chứ không phải thư viện của một nhóm nào.
-ÐQAThái: Hiện nay, Thư Viện Việt Nam có tổng cộng bao nhiêu cuốn sách và thuộc những loại nào?
-Nhà báo Du Miên: Về số lượng, chúng tôi có 55 đến 60 ngàn “đầu” sách, trong đó đa số là loại sách nghiên cứu sử. Nét đặc biệt của thư viện là sưu tầm và tồn giữ những sách mà vì hoàn cảnh đất nước, hoàn cảnh lịch sử bị mất đi hay bị tiêu hủy. Thư viện may mắn có nhiều cuốn sách xuất bản trước năm 1975 ở miền Mam và sau năm 1975 ở hải ngoại. Những cuốn sách liên quan đến chế độ hiện nay tại quê nhà chúng ta - dù là do bạn mình in ở Việt Nam - chúng tôi cũng không để trong thư viện vì thư viện này của đồng bào chúng ta tại hải ngoại.
-ÐQAThái: Tiền điều hành thư viện từ đâu ra ạ?
-Nhà báo Du Miên: Mỗi tháng, chi tiêu tổng công của thư viện là 2,450 Mỹ kim. Số tiền này do một số bạn bè và mạnh thường quân khoảng 40 người đóng góp; nếu thiếu thì anh em sáng lập viên đưa lưng ra gánh.
-ÐQAThái: Ðồng bào đến thư viện Việt Nam đọc sách có phải đóng góp gì không?
-Nhà báo Du Miên: Hoàn toàn miễn phí. Thậm chí chúng tôi có phòng hội 120 chỗ ngồi dành để các tổ chức, hội đoàn và anh em văn nghệ sĩ đến sinh hoạt hoàn toàn miễn phí. Chỉ có điều phòng hội không có máy lạnh nên mùa Hè nóng lắm thành ra ít người mượn để sinh hoạt.
-ÐQAThái: Những người đến thư viện thuộc lứa tuổi nào, thưa anh?
-Nhà báo Du Miên: Ðộc giả thường trực thuộc lớp lớn tuổi. Nhưng buổi chiều và nhất là Thứ Bẩy, các em trẻ thường đến tìm đọc những loại sách nói về lịch sử Việt Nam và nếu các em có điều gì không hiểu thì đã có một số anh chị lớn tuổi của thư viện hướng dẫn cho các em.
-ÐQAThái: Mười năm qua của Thư Viện Việt Nam, những thành quả nào những người chủ trương hài lòng nhất?
-Nhà báo Du Miên: Mười năm, anh em chúng tôi cố gắng xây dựng thư viện để đồng bào đến đọc sách. Bây giờ, dù những anh em chủ trương ban đầu có nằm xuống, thư viện vẫn tiếp tục sinh hoạt vì đã có lớp trẻ hơn kế thừa. Có ba công trình là tâm huyết của anh em trong 10 năm qua.
Công trình thứ nhất là Bộ Cổ Tích Việt Nam được xuất bản để phát hoàn toàn miễn phí cho tất cả các trung tâm Việt ngữ. Tiền in cuốn này do bạn hữu và các mạnh thường quân yểm trợ.
Công trình thứ hai là dịch được một cuốn sách mà từ 500 năm qua người Việt Nam mơ ước có để đọc chứ đừng nói là dịch ra tiếng Việt. Từ cụ Nhượng Tống đến Sử Quán Triều Nguyễn đều nghe nói đến cuốn sách đó chư chưa hề trông thấy. Ðó là cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, nói về gốc gác Việt tộc. Tác giả cuốn sách là sử gia Âu Ðại Nhậm viết thời nhà Minh 500 năm trước.
Người Tầu công nhận giá trị lịch sử của cuốn sách và xếp vào Tứ Khố Toàn Thư. Chúng tôi may mắn có bản chính thức của cuốn sách và anh em trong ban tu thư của Thư Viện Việt Nam như anh Trần Lam Giang, anh Nguyễn Ðức Lập cùng các cụ rất giỏi chữ Nho đã dịch cuốn này và xuất bản năm 2006.
Công trình thứ ba là cuốn Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông và tôi là tác gỉả. Trong cuốn sách này, tôi đã chứng minh được ông Khổng Tử đã lấy ca dao tục ngữ Việt Nam để đưa vào Kinh Thi rồi dạy cho người Tàu về luân lý và đạo đức. Tôi còn chứng minh bằng Sử Ký Tư Mã Thiên, rằng ông tổ của nhà Chu có 3 con trai thì ông đã cho 2 người con trai lớn qua Việt Nam cắt tóc, xâm mình để học văn hóa Việt Nam rồi đem về Tàu dạy cho dân Tàu.
-ÐQAThái: Những dự án tương lai của Thư Viện Việt Nam là gì ạ?
-Nhà báo Du Miên: Nhằm giúp lớp trẻ Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ không giỏi tiếng mẹ đẻ hiểu được văn hóa Việt Nam, hiện nay chúng tôi đang tiếp tục việc dịch Bộ Cổ Tích Việt Nam và cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí sang Anh ngữ. Riêng cuốn Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Ðông, chúng tôi cần hơn hết dịch sang Anh ngữ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện đang bị người Tàu ăn hiếp trong khi chế độ Hà Nội khiếp nhược trước Bắc phương. Dịch cuốn này sang tiếng Anh để lớp trẻ biết rằng văn hóa, sức mạnh của mình cao hơn người Tàu và không có gì khiến chúng ta phải sợ người Tàu; đồng thời cho Tây phương biết văn hóa Ðông phương phát xuất từ Việt Nam chứ không phải từ Trung Hoa như xưa nay người ta lầm tưởng.
-ÐQAThái: Câu chót xin hỏi anh, muốn tìm hiểu thêm về Thư Viện Việt Nam, độc giả có thể tìm ở đâu?
-Nhà báo Du Miên: Webside của Thư Viện Việt Nam là: www.vnlibraryonline.com, kính mời đồng hương vào xem.
-ÐQAThái: Cám ơn nhà báo Du Miên đã trả lời phỏng vấn của Người Việt.
vendredi 17 juillet 2009
Hoà dịu hay hèn yếu ?
Thursday, July 16, 2009
Ngô Nhân Dụng
Sáng ngày 16 Tháng Bảy 2009 chín ngư phủ Việt Nam bị tầu lạ đâm chìm ngoài biển Ðông ngày hôm trước đã về tới Quảng Ngãi nhờ các tầu bạn cứu đưa về. Một người thoát nạn kể, “Trong đêm khuya mịt mù giữa biển cả, giữa lúc các thuyền viên chợp mắt nghỉ ngơi trong khoang tàu thì bỗng dưng một chiếc tàu tông thẳng từ đằng sau tới.”
Những vụ tầu đánh cá Việt Nam bị tầu Trung Quốc tấn công đã tăng lên trong mấy năm qua, và chưa bao giờ “hung bạo” như trong năm 2009 này. Chỉ trong vòng hai tháng qua, ba tàu đánh cá của dân xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi bị tàu lạ đâm chìm vào ban đêm trên biển. Từ Tháng Giêng, một tàu đánh cá của ngư dân Phú Yên đã bị một tàu lạ đâm chìm ở vùng biển Ðại Lãnh, chín ngư dân mất tích. Ðến Tháng Ba, một tàu đánh cá ở Bạc Liêu bị một tàu lạ khác đâm chìm, hai người tử nạn và hai người mất tích. Ðầu Tháng Năm, một tàu ngư dân thuộc huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang vây bắt cá ở cách bờ chừng 65 hải lý thì bất ngờ bị một tàu nước ngoài đến yêu cầu dỡ lưới đi nơi khác, nếu không sẽ gặp rắc rối. Ngày 22 Tháng Năm, một tàu cá khác từ huyện Ðức Phổ, Quảng Ngãi đã bị một tàu nước ngoài tấn công ngay trên nơi thả lưới, lấy đi hơn một nửa số cá vừa đánh bắt được. Bọn cướp trên chiếc tàu lạ này còn dùng lưỡi lê đâm thủng thuyền thúng dùng làm xuồng cứu nạn.
Chính phủ Trung Quốc đã “ra lệnh” từ Tháng Sáu đến Tháng Tám không cho tàu đánh cá vào vùng Hoàng Sa mà họ coi là thuộc chủ quyền của họ. Ngay đầu Tháng Sáu, một chiếc tàu của ngư dân huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An đã bị hai tàu lạ tấn công, phải bỏ lưới thoát thân.
Riêng tỉnh Quảng Ngãi bị chú ý đặc biệt, đến nay đã có 33 chiếc tàu đánh cá với 373 ngư dân là bị Trung Cộng bắt, riêng năm 2007 đã có 9 ngư dân bị giết chết hoặc bị thương. Những người này bị buộc phải nộp tiền chuộc từ 50 đến 70 ngàn Yuan tức từ 9 đến 11 ngàn đô-la mới được trả tự do. Tại họa đến với dân Quảng Ngãi chắc vì quần đảo Hoàng Sa thuộc vùng này.
Như thường lệ, phản ứng của chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam lúc nào cũng rất yếu ớt. Những người bênh vực đảng và nhà nước Cộng Sản thường biện minh rằng Việt Nam là một nước nhỏ, sức không chống nổi Trung Quốc cho nên phải giữ thái độ hòa dịu, mềm dẻo. Hòa dịu có nghĩa là không gây hấn, không đe dọa ai hết. Nhưng không có nghĩa là tiếp tục chịu nhục mãi. Khi dân nước mình bị đe dọa, bị tấn công ngay trên mặt biển của mình, mà không có những biện pháp trả đũa ngoại giao mạnh mẽ, đó là một điều nhục nhã. Ngay khi ngư dân Việt Nam bị bắt cóc đòi tiền chuộc, một chính quyền biết tự trọng ít nhất phải triệu hồi đại sứ của mình ở Bắc Kinh về để bày tỏ nỗi bất bình. Phải đưa nội vụ ra trước những tòa án quốc tế để kiện.
Nhưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn đứng về phía các đồng chí Trung Quốc của họ. Cứ đọc các báo trong nước thì thấy rõ báo chí bị kiểm soát để bảo vệ “tình hữu hảo” giữa hai đảng Cộng Sản như thế nào. Trong những bài báo tường thuật vụ “tàu lạ” đâm vào tàu Việt Nam, không báo, đài nào dám gọi tên hay bàn bạc rằng đó là những “tầu Trung Quốc!” Những người chỉ huy các báo sợ đụng tới cái tên đó sẽ mang vạ! Mặc dù vậy, nhiều nhà báo yêu nước vẫn tiết lộ được điều đó bằng cách nói khéo là những người trên “tầu lạ” ra lệnh cho các ngư phủ Việt Nam bằng tiếng Trung Quốc! Tuy nhiên chỉ được một vài ngày, sau đó cả chi tiết về ngôn ngữ đó cũng không được nhắc tới nữa! Sau này các nhà báo Việt Nam sẽ có dịp viết hồi ký, cho biết những ai ra lệnh cho họ không được đụng tới tên Trung Quốc! Nhưng chính vì đảng Cộng Sản “kính nể” Trung Quốc quá đáng nên họ “được đằng chân lân đằng đầu!” Người dân Trung Quốc cũng coi rẻ người dân Việt Nam! Và các ngư phủ Việt Nam đang là nạn nhân của chính sách “ngoại giao mềm dẻo” đến độ “hèn yếu” này!
Năm ngoái đã xảy ra một cuộc đụng độ tương tự giữa Ðài Loan và Nhật Bản trong vùng Ðiếu Ngư Ðài. Chiếc tàu đánh cá Liên Hòa của Ðài Loan bị một tàu tuần duyên Nhật Bản đâm rồi bị chìm vào Tháng Sáu, 2008. Chính phủ Ðài Loan đã phản đối mạnh mẽ. Dù ai cũng biết sức lực Ðài Loan yếu hơn Nhật, nhưng ông thủ tướng Ðài Loan vẫn dọa “không gạt bỏ việc dùng vũ lực” để giải quyết biến cố này! Chính phủ Ðài Bắc triệu hồi “đại diện” của họ ở Tokyo về nước (tương đương với đại sứ vì hai nước không trao đổi ngoại giao chính thức), rồi cho 5 tuần duyên hải hộ tống một đoàn tàu chở dân Ðài Loan “biểu tình” tới sát Ðiếu Ngư Ðài, chạy vòng quanh cách đảo khoảng 700 mét. Bốn ngày sau, người đại diện Nhật Bản ở Ðài Bắc phải chính thức xin lỗi vị thuyền trưởng tàu Liên Hòa, lúc đó cuộc tranh chấp mới yên.
Người Nhật phải kính trọng dân Ðài Loan vì chính quyền Ðài Loan không hèn nhát. Cách chính quyền Bắc Kinh đối xử với các nước khác trong vùng biển tranh chấp khác hẳn cách họ đối đãi với dân Việt Nam. Ngày 25 Tháng Sáu, Indonesia đã bắt 75 ngư phủ người Tàu đánh cá trong vùng Trường Sa, mà chính phủ Trung Quốc chỉ lễ phép khiếu nại và xin trả tự do cho dân của họ. Cũng trong tháng đó, Phi Luật Tân đã bắt giữ 25 ngư phủ người Trung Hoa trong vùng tranh chấp Trường Sa, mà chính phủ Manilla không sợ bị Trung Quốc “trừng phạt.”
Trung Quốc đối xử khác biệt là do chính quyền Việt Nam không dám có phản ứng mạnh mẽ sau những vụ chủ quyền và quyền sống của người dân nước Việt bị xâm phạm trắng trợn, như mới xảy ra ở Quảng Ngãi gần đây. Nếu một chính quyền nhát quá không dám làm mạnh thì tối thiểu cũng phải để cho dân trong nước mình được tự do biểu tình phản đối trước các tòa đại sứ, lãnh sự quán. Hoặc dân chúng kéo nhau đi thuyền đến vùng biển tranh chấp bày tỏ lòng phẫn uất của mình, giống như các thanh niên Hồng Kông và Ðài Loan đã nhiều lần đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài.
Ðiếu Ngư Ðài chỉ là một nhóm chừng 5, 7 hòn đá lớn nổi trên mặt biển với diện tích tổng cộng chỉ có 7 cây số vuông, hiện do người Nhật chiếm đóng, họ gọi tên là Senkaku. Nhưng từ năm 1971 hai chính phủ Trung Hoa, ở lục địa và Ðài Loan, đều khẳng định mấy đảo này là của họ, với tên Ðiếu Ngư Ðài.
Tất cả những vụ “đụng độ” về các hòn đảo này thường do người dân yêu nước xướng xuất, mà chính quyền không ngăn cản. Từ năm 1978, Hội Thanh Niên Nhật Bản đã hai lần quyên góp tiền để xây dựng những hải đăng trên hai hòn đảo lớn ở Senkaku, để xác định chủ quyền. Lần thứ nhì vào Tháng Chín năm 1996 khiến dư luận cả thế giới chú ý, chính phủ Mỹ phải lên tiếng tuyên bố đứng trung lập - cũng như một phụ tá Bộ Ngoại Giao Mỹ mới nói với Quốc Hội vào ngày Thứ Tư, 15 Tháng Năm, 2009 rằng Mỹ hoàn toàn đứng ngoài trong vụ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vùng biển Ðông. Ngay sau đó, có những đoàn thanh niên từ Hồng Kông, Ðài Loan, rồi sau đó đến Trung Quốc đã tổ chức đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài cắm cờ quốc gia của họ lên đảo. Một thanh niên Hồng Kông đã chết đuối trong một chuyến hành trình phản kháng đó.
Tháng Ba năm 2004 một nhóm bảy thanh niên từ lục địa đổ bộ lên Ðiếu Ngư Ðài, họ bị quân tuần phòng Nhật Bản bắt; chính phủ Bắc Kinh phản đối và đòi Nhật trả họ về nước. Ðể chứng tỏ thanh niên Nhật Bản cũng không sợ, vào Tháng Tư, một nhóm ái quốc ở Nhật lái một chiếc xe vận tải đâm vào tòa lãnh sự Trung Quốc ở Osaka cho bốc cháy.
Tháng Bảy 2004, thanh niên Bắc Kinh đã biểu tình trước Tòa Ðại Sứ Nhật Bản phản đối việc khai thác dầu khí ở hải phận quanh Ðiếu Ngư Ðài. Hai năm trước đây, tòa đại sứ và lãnh sự Trung Cộng ở Hà Nội và Sài Gòn đều đóng cửa im ỉm để mặc cho cảnh sát công an Việt Cộng đối phó khi các thanh niên Việt Nam tới biểu tình phản đối vụ Hoàng Sa. Khi dân Trung Quốc biểu tình chống đối, Tòa Ðại Sứ Nhật Bản ở Bắc Kinh đã cử hai nhân viên ra nhận lá thư phản kháng. Cũng theo cách đối xử lịch sự như vậy, vào năm 2006 tầu tuần duyên Nhật Bản chỉ ngăn cản những tầu “biểu tình” của một nhóm thanh niên Hồng Kông không cho họ đổ bộ lên đảo, mà không để xảy ra một vụ xô xát nào.
Tháng Sáu năm 2005 một chiếc tầu đánh cá tư nhân của Ðài Loan bị tầu tuần duyên Nhật Bản ngăn chặn xét hỏi khi tới Ðiếu Ngư Ðài. Chính phủ Ðài Loan đã gửi một chiến hạm tới sát gần Ðiếu Ngư Ðài để bày tỏ sự tức giận của dân chúng Ðài Loan; trên chiếc tầu này có ông bộ trưởng quốc phòng và vị chủ tịch Quốc Hội. Quân đội Nhật Bản không có một hành động nào ngăn cản chiếc tàu đó, và sang Tháng Bảy thì chính quyền hai nước bắt đầu cuộc thương thuyết về vùng đánh cá, mặc dù không ai bàn đến vấn đề chủ quyền trên Ðiếu Ngư Ðài. So sánh với các vụ “tàu lạ” đâm vào mạn sườn tầu Việt Nam giữa đêm, hoặc bắt cóc các ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc trong vùng Hoàng Sa thấy khác hẳn. Khác không phải vì người Nhật biết cư xử lịch sự văn minh hơn người Trung Quốc; mà khác ở chỗ chính phủ Tokyo kính nể dân Trung Hoa, còn chính phủ Bắc Kinh không cần kính trọng dân Việt Nam.
Trong cuộc tranh chấp về Ðiếu Ngư Ðài, phía Nhật Bản có những nhóm thanh niên tìm cách bày tỏ tình tự dân tộc mạnh mẽ. Ðối lại, dân Trung Hoa ở cả hai bên eo biển cũng đều tìm cơ hội biểu dương chủ quyền của nước họ. Dân trong lục địa Trung Quốc không hoạt động mạnh bằng người ở Hồng Kông và Ðài Loan. Có lẽ vì ở Hồng Kông và Ðài Loan dân chúng đã quen nếp sống tự do, xã hội công dân tự động phát triển phong phú tại cả hai nơi này. Các công dân hai xứ đó vẫn có thói quen tự đứng ra tổ chức các sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội cho chính mình, họ cũng được tự động thể hiện tinh thần ái quốc. Còn dân Trung Hoa trong lục địa không quen thi hành quyền công dân của mình bằng những việc bày tỏ thái độ chung. Dân các nước Cộng Sản vẫn có thói quen chờ mệnh lệnh của Ðảng; khi Ðảng xúi giục hoặc cho phép thì dân mới hành động.
Dân Việt Nam còn kém may mắn hơn. Việc tổ chức biểu tình vốn đã khó khăn vì dân không có thói quen tự mình hành động, tệ hơn nữa là những người yêu nước còn bị chính quyền ngăn cấm, không cho bày tỏ phẫn uất trước những hành động xâm lăng, đe dọa và gây hấn của Trung Quốc.
Người Việt tị nạn ở khắp thế giới có thể biểu tình yêu cầu chính phủ các nước như Úc, Pháp, Mỹ, Canada, vân vân, can thiệp với chính quyền Trung Quốc để họ ngưng các vụ tấn công tàu đánh cá Việt Nam? Nhưng họ sẽ hỏi, “Tại sao chính quyền ở Việt Nam không làm việc đó?”
Trong hoàn cảnh này, chỉ có cách là chính đồng bào chúng ta ở Quảng Ngãi, ở Nghệ An và các thành phố khác phải bày tỏ thái độ. Cần phải can đảm như dân Ðài Loan, dân Hồng Kông. Nếu người dân Việt Nam cũng tiếp tục ngoan ngoãn như chính quyền Cộng Sản thì sẽ còn nhiều vụ “tàu lạ” đâm vào tàu đánh cá Việt Nam nữa! Vì người Trung Quốc, hay người Nhật Bản cũng vậy, họ không thể kính trọng một dân tộc ngoan ngoãn quá! Cả nước từ trên xuống dưới phải “hòa dịu” mãi sẽ thành ra “hèn yếu!”
Ngô Nhân Dụng
Sáng ngày 16 Tháng Bảy 2009 chín ngư phủ Việt Nam bị tầu lạ đâm chìm ngoài biển Ðông ngày hôm trước đã về tới Quảng Ngãi nhờ các tầu bạn cứu đưa về. Một người thoát nạn kể, “Trong đêm khuya mịt mù giữa biển cả, giữa lúc các thuyền viên chợp mắt nghỉ ngơi trong khoang tàu thì bỗng dưng một chiếc tàu tông thẳng từ đằng sau tới.”
Những vụ tầu đánh cá Việt Nam bị tầu Trung Quốc tấn công đã tăng lên trong mấy năm qua, và chưa bao giờ “hung bạo” như trong năm 2009 này. Chỉ trong vòng hai tháng qua, ba tàu đánh cá của dân xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi bị tàu lạ đâm chìm vào ban đêm trên biển. Từ Tháng Giêng, một tàu đánh cá của ngư dân Phú Yên đã bị một tàu lạ đâm chìm ở vùng biển Ðại Lãnh, chín ngư dân mất tích. Ðến Tháng Ba, một tàu đánh cá ở Bạc Liêu bị một tàu lạ khác đâm chìm, hai người tử nạn và hai người mất tích. Ðầu Tháng Năm, một tàu ngư dân thuộc huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, khi đang vây bắt cá ở cách bờ chừng 65 hải lý thì bất ngờ bị một tàu nước ngoài đến yêu cầu dỡ lưới đi nơi khác, nếu không sẽ gặp rắc rối. Ngày 22 Tháng Năm, một tàu cá khác từ huyện Ðức Phổ, Quảng Ngãi đã bị một tàu nước ngoài tấn công ngay trên nơi thả lưới, lấy đi hơn một nửa số cá vừa đánh bắt được. Bọn cướp trên chiếc tàu lạ này còn dùng lưỡi lê đâm thủng thuyền thúng dùng làm xuồng cứu nạn.
Chính phủ Trung Quốc đã “ra lệnh” từ Tháng Sáu đến Tháng Tám không cho tàu đánh cá vào vùng Hoàng Sa mà họ coi là thuộc chủ quyền của họ. Ngay đầu Tháng Sáu, một chiếc tàu của ngư dân huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An đã bị hai tàu lạ tấn công, phải bỏ lưới thoát thân.
Riêng tỉnh Quảng Ngãi bị chú ý đặc biệt, đến nay đã có 33 chiếc tàu đánh cá với 373 ngư dân là bị Trung Cộng bắt, riêng năm 2007 đã có 9 ngư dân bị giết chết hoặc bị thương. Những người này bị buộc phải nộp tiền chuộc từ 50 đến 70 ngàn Yuan tức từ 9 đến 11 ngàn đô-la mới được trả tự do. Tại họa đến với dân Quảng Ngãi chắc vì quần đảo Hoàng Sa thuộc vùng này.
Như thường lệ, phản ứng của chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam lúc nào cũng rất yếu ớt. Những người bênh vực đảng và nhà nước Cộng Sản thường biện minh rằng Việt Nam là một nước nhỏ, sức không chống nổi Trung Quốc cho nên phải giữ thái độ hòa dịu, mềm dẻo. Hòa dịu có nghĩa là không gây hấn, không đe dọa ai hết. Nhưng không có nghĩa là tiếp tục chịu nhục mãi. Khi dân nước mình bị đe dọa, bị tấn công ngay trên mặt biển của mình, mà không có những biện pháp trả đũa ngoại giao mạnh mẽ, đó là một điều nhục nhã. Ngay khi ngư dân Việt Nam bị bắt cóc đòi tiền chuộc, một chính quyền biết tự trọng ít nhất phải triệu hồi đại sứ của mình ở Bắc Kinh về để bày tỏ nỗi bất bình. Phải đưa nội vụ ra trước những tòa án quốc tế để kiện.
Nhưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn đứng về phía các đồng chí Trung Quốc của họ. Cứ đọc các báo trong nước thì thấy rõ báo chí bị kiểm soát để bảo vệ “tình hữu hảo” giữa hai đảng Cộng Sản như thế nào. Trong những bài báo tường thuật vụ “tàu lạ” đâm vào tàu Việt Nam, không báo, đài nào dám gọi tên hay bàn bạc rằng đó là những “tầu Trung Quốc!” Những người chỉ huy các báo sợ đụng tới cái tên đó sẽ mang vạ! Mặc dù vậy, nhiều nhà báo yêu nước vẫn tiết lộ được điều đó bằng cách nói khéo là những người trên “tầu lạ” ra lệnh cho các ngư phủ Việt Nam bằng tiếng Trung Quốc! Tuy nhiên chỉ được một vài ngày, sau đó cả chi tiết về ngôn ngữ đó cũng không được nhắc tới nữa! Sau này các nhà báo Việt Nam sẽ có dịp viết hồi ký, cho biết những ai ra lệnh cho họ không được đụng tới tên Trung Quốc! Nhưng chính vì đảng Cộng Sản “kính nể” Trung Quốc quá đáng nên họ “được đằng chân lân đằng đầu!” Người dân Trung Quốc cũng coi rẻ người dân Việt Nam! Và các ngư phủ Việt Nam đang là nạn nhân của chính sách “ngoại giao mềm dẻo” đến độ “hèn yếu” này!
Năm ngoái đã xảy ra một cuộc đụng độ tương tự giữa Ðài Loan và Nhật Bản trong vùng Ðiếu Ngư Ðài. Chiếc tàu đánh cá Liên Hòa của Ðài Loan bị một tàu tuần duyên Nhật Bản đâm rồi bị chìm vào Tháng Sáu, 2008. Chính phủ Ðài Loan đã phản đối mạnh mẽ. Dù ai cũng biết sức lực Ðài Loan yếu hơn Nhật, nhưng ông thủ tướng Ðài Loan vẫn dọa “không gạt bỏ việc dùng vũ lực” để giải quyết biến cố này! Chính phủ Ðài Bắc triệu hồi “đại diện” của họ ở Tokyo về nước (tương đương với đại sứ vì hai nước không trao đổi ngoại giao chính thức), rồi cho 5 tuần duyên hải hộ tống một đoàn tàu chở dân Ðài Loan “biểu tình” tới sát Ðiếu Ngư Ðài, chạy vòng quanh cách đảo khoảng 700 mét. Bốn ngày sau, người đại diện Nhật Bản ở Ðài Bắc phải chính thức xin lỗi vị thuyền trưởng tàu Liên Hòa, lúc đó cuộc tranh chấp mới yên.
Người Nhật phải kính trọng dân Ðài Loan vì chính quyền Ðài Loan không hèn nhát. Cách chính quyền Bắc Kinh đối xử với các nước khác trong vùng biển tranh chấp khác hẳn cách họ đối đãi với dân Việt Nam. Ngày 25 Tháng Sáu, Indonesia đã bắt 75 ngư phủ người Tàu đánh cá trong vùng Trường Sa, mà chính phủ Trung Quốc chỉ lễ phép khiếu nại và xin trả tự do cho dân của họ. Cũng trong tháng đó, Phi Luật Tân đã bắt giữ 25 ngư phủ người Trung Hoa trong vùng tranh chấp Trường Sa, mà chính phủ Manilla không sợ bị Trung Quốc “trừng phạt.”
Trung Quốc đối xử khác biệt là do chính quyền Việt Nam không dám có phản ứng mạnh mẽ sau những vụ chủ quyền và quyền sống của người dân nước Việt bị xâm phạm trắng trợn, như mới xảy ra ở Quảng Ngãi gần đây. Nếu một chính quyền nhát quá không dám làm mạnh thì tối thiểu cũng phải để cho dân trong nước mình được tự do biểu tình phản đối trước các tòa đại sứ, lãnh sự quán. Hoặc dân chúng kéo nhau đi thuyền đến vùng biển tranh chấp bày tỏ lòng phẫn uất của mình, giống như các thanh niên Hồng Kông và Ðài Loan đã nhiều lần đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài.
Ðiếu Ngư Ðài chỉ là một nhóm chừng 5, 7 hòn đá lớn nổi trên mặt biển với diện tích tổng cộng chỉ có 7 cây số vuông, hiện do người Nhật chiếm đóng, họ gọi tên là Senkaku. Nhưng từ năm 1971 hai chính phủ Trung Hoa, ở lục địa và Ðài Loan, đều khẳng định mấy đảo này là của họ, với tên Ðiếu Ngư Ðài.
Tất cả những vụ “đụng độ” về các hòn đảo này thường do người dân yêu nước xướng xuất, mà chính quyền không ngăn cản. Từ năm 1978, Hội Thanh Niên Nhật Bản đã hai lần quyên góp tiền để xây dựng những hải đăng trên hai hòn đảo lớn ở Senkaku, để xác định chủ quyền. Lần thứ nhì vào Tháng Chín năm 1996 khiến dư luận cả thế giới chú ý, chính phủ Mỹ phải lên tiếng tuyên bố đứng trung lập - cũng như một phụ tá Bộ Ngoại Giao Mỹ mới nói với Quốc Hội vào ngày Thứ Tư, 15 Tháng Năm, 2009 rằng Mỹ hoàn toàn đứng ngoài trong vụ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vùng biển Ðông. Ngay sau đó, có những đoàn thanh niên từ Hồng Kông, Ðài Loan, rồi sau đó đến Trung Quốc đã tổ chức đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài cắm cờ quốc gia của họ lên đảo. Một thanh niên Hồng Kông đã chết đuối trong một chuyến hành trình phản kháng đó.
Tháng Ba năm 2004 một nhóm bảy thanh niên từ lục địa đổ bộ lên Ðiếu Ngư Ðài, họ bị quân tuần phòng Nhật Bản bắt; chính phủ Bắc Kinh phản đối và đòi Nhật trả họ về nước. Ðể chứng tỏ thanh niên Nhật Bản cũng không sợ, vào Tháng Tư, một nhóm ái quốc ở Nhật lái một chiếc xe vận tải đâm vào tòa lãnh sự Trung Quốc ở Osaka cho bốc cháy.
Tháng Bảy 2004, thanh niên Bắc Kinh đã biểu tình trước Tòa Ðại Sứ Nhật Bản phản đối việc khai thác dầu khí ở hải phận quanh Ðiếu Ngư Ðài. Hai năm trước đây, tòa đại sứ và lãnh sự Trung Cộng ở Hà Nội và Sài Gòn đều đóng cửa im ỉm để mặc cho cảnh sát công an Việt Cộng đối phó khi các thanh niên Việt Nam tới biểu tình phản đối vụ Hoàng Sa. Khi dân Trung Quốc biểu tình chống đối, Tòa Ðại Sứ Nhật Bản ở Bắc Kinh đã cử hai nhân viên ra nhận lá thư phản kháng. Cũng theo cách đối xử lịch sự như vậy, vào năm 2006 tầu tuần duyên Nhật Bản chỉ ngăn cản những tầu “biểu tình” của một nhóm thanh niên Hồng Kông không cho họ đổ bộ lên đảo, mà không để xảy ra một vụ xô xát nào.
Tháng Sáu năm 2005 một chiếc tầu đánh cá tư nhân của Ðài Loan bị tầu tuần duyên Nhật Bản ngăn chặn xét hỏi khi tới Ðiếu Ngư Ðài. Chính phủ Ðài Loan đã gửi một chiến hạm tới sát gần Ðiếu Ngư Ðài để bày tỏ sự tức giận của dân chúng Ðài Loan; trên chiếc tầu này có ông bộ trưởng quốc phòng và vị chủ tịch Quốc Hội. Quân đội Nhật Bản không có một hành động nào ngăn cản chiếc tàu đó, và sang Tháng Bảy thì chính quyền hai nước bắt đầu cuộc thương thuyết về vùng đánh cá, mặc dù không ai bàn đến vấn đề chủ quyền trên Ðiếu Ngư Ðài. So sánh với các vụ “tàu lạ” đâm vào mạn sườn tầu Việt Nam giữa đêm, hoặc bắt cóc các ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc trong vùng Hoàng Sa thấy khác hẳn. Khác không phải vì người Nhật biết cư xử lịch sự văn minh hơn người Trung Quốc; mà khác ở chỗ chính phủ Tokyo kính nể dân Trung Hoa, còn chính phủ Bắc Kinh không cần kính trọng dân Việt Nam.
Trong cuộc tranh chấp về Ðiếu Ngư Ðài, phía Nhật Bản có những nhóm thanh niên tìm cách bày tỏ tình tự dân tộc mạnh mẽ. Ðối lại, dân Trung Hoa ở cả hai bên eo biển cũng đều tìm cơ hội biểu dương chủ quyền của nước họ. Dân trong lục địa Trung Quốc không hoạt động mạnh bằng người ở Hồng Kông và Ðài Loan. Có lẽ vì ở Hồng Kông và Ðài Loan dân chúng đã quen nếp sống tự do, xã hội công dân tự động phát triển phong phú tại cả hai nơi này. Các công dân hai xứ đó vẫn có thói quen tự đứng ra tổ chức các sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội cho chính mình, họ cũng được tự động thể hiện tinh thần ái quốc. Còn dân Trung Hoa trong lục địa không quen thi hành quyền công dân của mình bằng những việc bày tỏ thái độ chung. Dân các nước Cộng Sản vẫn có thói quen chờ mệnh lệnh của Ðảng; khi Ðảng xúi giục hoặc cho phép thì dân mới hành động.
Dân Việt Nam còn kém may mắn hơn. Việc tổ chức biểu tình vốn đã khó khăn vì dân không có thói quen tự mình hành động, tệ hơn nữa là những người yêu nước còn bị chính quyền ngăn cấm, không cho bày tỏ phẫn uất trước những hành động xâm lăng, đe dọa và gây hấn của Trung Quốc.
Người Việt tị nạn ở khắp thế giới có thể biểu tình yêu cầu chính phủ các nước như Úc, Pháp, Mỹ, Canada, vân vân, can thiệp với chính quyền Trung Quốc để họ ngưng các vụ tấn công tàu đánh cá Việt Nam? Nhưng họ sẽ hỏi, “Tại sao chính quyền ở Việt Nam không làm việc đó?”
Trong hoàn cảnh này, chỉ có cách là chính đồng bào chúng ta ở Quảng Ngãi, ở Nghệ An và các thành phố khác phải bày tỏ thái độ. Cần phải can đảm như dân Ðài Loan, dân Hồng Kông. Nếu người dân Việt Nam cũng tiếp tục ngoan ngoãn như chính quyền Cộng Sản thì sẽ còn nhiều vụ “tàu lạ” đâm vào tàu đánh cá Việt Nam nữa! Vì người Trung Quốc, hay người Nhật Bản cũng vậy, họ không thể kính trọng một dân tộc ngoan ngoãn quá! Cả nước từ trên xuống dưới phải “hòa dịu” mãi sẽ thành ra “hèn yếu!”
jeudi 16 juillet 2009
Bàn tay lông lá của Trung Cộng !
Ban Biên Tập TDNL (15.07.2009 số 79) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Quán tính thống trị, thống trị theo kiểu bạo chúa và quán tính thần phục, thần phục đến độ nô lệ, là hai trong những nét đặc trưng của các đảng Cộng sản và các chế độ Cộng sản. Nói cách khác, chủ nghĩa CS chưa bao giờ là một chủ nghĩa để xây dựng một chính đảng hay một quốc gia có tinh thần độc lập với những thành viên tự do. Nó là chủ nghĩa cá lớn hiếp cá bé một cách tàn bạo: Đảng CS lớn hiếp đảng CS bé, và đảng viên CS to hiếp đảng viên CS nhỏ (chưa kể đảng CS hiếp đáp toàn thể nhân dân mình). Điều này thấy rõ qua sự khống chế tàn khốc của Cộng hòa Nga đối với 14 cộng hòa còn lại trong Liên bang Xô viết trước đây; sự can thiệp thô bạo của đảng CS Liên Xô vào các đảng CS Đông Âu lẫn các đảng CS nhỏ khắp thế giới, kể cả các đảng CS tại những quốc gia tư bản trước năm 1990; sự uy hiếp trắng trợn của đảng CS Trung Quốc đối với các đảng CS ở Đông Dương lúc này… Riêng trong mỗi đảng CS là sự thống trị kiểu bạo chúa của Bộ chính trị trên các đảng viên bên dưới và của kẻ quyền lực nhất trên các thành viên còn lại của Bộ Chính trị.
Rumani từng phải đào một thủy lộ lớn -với giá hàng trăm ngàn sinh mạng công dân của mình- để chuyên chở tài sản đất nước qua Liên Xô. Maurice Thorez và đảng CS Pháp từng ca tụng Liên Xô “đã đào tạo con người trưởng thành rất sớm” khi Stalin hạ mức án tử hình xuống ngang 14 tuổi. Một đảng viên CS Đông Đức từng mặc áo mưa, tay che dù đi giữa trời nắng tại Berlin chỉ vì lúc ấy bên Moskva trời đang mưa xối xả. Hồ Chí Minh từng tuyên bố trên quả địa cầu này, ai cũng sai lầm hết, trừ hai lãnh tụ bất khả ngộ là Stalin và Mao. Stalin từng giết hết tất cả các ứng viên kế vị Lênin trong Bộ Chính trị để trở thành “Người Số một”. Mao cũng từng thanh trừng các đại đồng chí như Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ, chỉ chừa lại Chu Ân Lai vốn tôn sùng Mao như một tên nô lệ…
Đảng CSVN, sau thời kỳ ban đầu tùng phục hai đàn anh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, đã chuyển sang tùng phục Liên Xô và kết án Trung Quốc thậm tệ (xem cuốn “Sự thật về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua” do bộ Ngoại giao CSVN công bố ngày 04-10-1979). Sau khi Liên Xô sụp đổ đầu năm 1990, CSVN quay lại thần phục Trung Quốc vì không còn biết tìm chỗ dựa nơi nào khác qua màn “thú tội, qui hàng” ô nhục tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, TQ, vào tháng 9 cùng năm này. Quán tính thần phục do vô tổ quốc, vô dân tộc mà lỵ! Kể từ thời điểm đó, sự lệ thuộc chủ-tớ, sự gắn bó răng-môi, sự kết nối ca-đệ ngày càng khiến Việt Cộng sa vào vòng tay Trung Cộng, Nam phiên cuốn vào quỹ đạo Bắc triều. Mối quan hệ này được đánh dấu bằng những hiệp định bất bình đẳng về biên giới và vịnh biển năm 1999 và 2000, bằng những cuộc khấu đầu bái yết của các tân tổng bí thư, tân bộ chính trị CSVN sau từng đại hội đảng, bằng những cuộc trình báo xin phép của các phái đoàn CSVN trước khi đi thương lượng với chính giới Mỹ-Âu, bằng những tuyên bố chung bất lợi cho VN năm 2001, 2008 (về khai thác bauxite), bằng những công trình đang được khai triển ở VN và các quốc gia lân cận như xây dựng xa lộ Trường Sơn, mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua Quảng Trị, xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, khai thông lòng Cửu Long để tàu vận tải nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội, miễn hộ chiếu cho người Trung Quốc vào tận mũi Cà Mau, cho phép hình thành những làng Tàu từ Nam chí Bắc và đặc biệt là để cho Trung Quốc khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Nhưng đau thương nhất và ô nhục nhất, mối quan hệ Việt Trung ấy được đánh dấu bằng những cuộc tàn sát, bắt bớ, cướp bóc ngư dân VN trên biển kể từ năm 2005 đến giờ mà CSVN chỉ phản kháng lấy lệ đôi lần, ngoài ra không có hành động gì cụ thể đối với Trung Quốc lẫn trước quốc tế (xin xem Kháng thư số 25 của Khối 8406) và bằng những cuộc cấm cản, bắt bớ, xử tù những ai khơi dậy tinh thần phản kháng quân Tàu. Bàn tay lông lá của Trung Quốc quả đã thọc sâu và thô bạo!
Đầu tiên có lẽ phải kể đến vụ xử nhà luật học trẻ Lê Chí Quang vào ngày 08-11-2002, đúng hôm khai mạc Đại hội đảng CS Trung Quốc lần thứ 16. Đây là món quà kính tiến và tạ lỗi với Đại ca vì đã lỡ để cho một tên nhãi nhép công bố khắp thế giới bài “Hãy cảnh giác Bắc Triều” viết cách đó một năm. Tiếp đến là việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, nghệ sĩ, dân oan vào các ngày 09, 16, 23-12-2007 chống Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba quần đảo biển Ðông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt; việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên ngày 19-01-2008 để tưởng niệm 34 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, khiến cho 58 lính hải quân VNCH tử trận vì bảo toàn lãnh thổ; việc dẹp cuộc biểu tình ngày 29 và 30-04-2008 của sinh viên học sinh và giới dân chủ phản đối việc rước đuốc Olympic Bắc Kinh qua Sài Gòn; rồi việc dẹp cuộc biểu tình ngày 06-12-2008 của thanh niên sinh viên trước Đại sứ quán lẫn Lãnh sự quán Trung Quốc để phản kháng nước này đã chi gần 30 tỉ Mỹ kim hầu khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền VN.
Tiếp đến là một loạt bắt bớ các nhà dân chủ có tinh thần chống Trung Quốc, mà đầu tiên là luật sư Lê Công Định hôm 13-06-2009, một ngày sau chuyến viếng thăm của Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trung Cộng. Ngoài lý do gọi là “tuyên truyền và hoạt động chống nhà nước, vi phạm điều 88” của vị luật sư này, còn có lý do sâu xa là ông đã dự định kiện ra quốc tế việc Tàu xâm phạm hải phận Việt và cấm ngư dân Việt đánh cá trên biển Đông.
Vụ bắt hai nhà dân chủ, một già một trẻ là Trung tá Trần Anh Kim và thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung ngày 07-07 cũng không ngoài lý do sâu xa là chống Trung Quốc. Chính bản tin báo Công an mạng cùng ngày viết: “Bên cạnh đó [việc thành lập Tập hợp thanh niên Dân chủ và tham gia đảng Dân chủ Nhân dân], Trung còn kích động sinh viên, thanh niên biểu tình gây rối tại Hà Nội và TP HCM trong các ngày 9, 16, 23-12-2007 và ngày 29-04-2008”. Nhà dân chủ trung tá Trần Anh Kim là một cựu chiến binh và cựu chỉ huy trong trận chiến biên giới với Trung Quốc ngày 17-02-1979, một cuộc chiến mà Hà Nội nay không muốn làm lễ kỷ niệm. Chính ông đã viết bài “Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc sau 30 năm ! Kỷ niệm 30 năm chiến đấu, chiến thắng quân Bành trướng bá quyền Bắc Kinh”.
Trước vụ Trần Anh Kim hai tuần, kỳ họp thứ 5 của Quốc hội CSVN khóa XII -bế mạc hôm 20-06 với lời kết luận của chủ tịch Nguyễn Phú Trọng là QH đồng thuận về việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên- đã như một gáo nước lạnh dội lên những bức thư cảnh tỉnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng lãnh, những phản biện đầy tinh thần trách nhiệm của các nhà khoa học VN trong lẫn ngoài nước, những chữ ký nơi bản kiến nghị của trên 2000 nhà trí thức ái quốc, những lời phát biểu thẳng thắn của vài đại biểu Quốc hội trước sự mất còn của dân tộc trước hiểm họa Bắc triều. Bộ Chính trị Việt Cộng vẫn như con rối dưới sự điều khiển của bàn tay lông lá Trung Cộng, một bàn tay sắt thủ sẵn nhiều hăm dọa tiết lộ những bí mật động trời của đảng CSVN, bọc trong một cái găng nhung là hàng trăm triệu đôla tọng vào miệng các thành viên bộ Chính trị, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng, theo như dư luận đồn đoán.
Đến ngày 29-06, một vụ đàn áp làm giới Phật tử ở trong lẫn ngoài nước kinh ngạc đã xẩy ra tại Tu viện Bát Nhã thuộc xã Dambri, tỉnh Lâm Ðồng. Gần 400 tăng ni và cư sĩ đang tu tập ở đó đã bị cắt điện cắt nước, phá cửa phá nhà, chửi bới đánh đập và có thể bị đuổi khỏi tu viện bởi nhà cầm quyền phối hợp với Phật giáo quốc doanh, công an cảnh sát và đầu gấu côn đồ. Một trong những lý do sâu xa là người sáng lập tu viện, thiền sư Nhất Hạnh, từng tuyên bố tại Roma đầu năm 2008 những lời ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng (03-2008) khi được báo chí phỏng vấn. Ông cũng từng đề nghị ban tổ chức đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc nên mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới VN tham dự lễ này. Những ý kiến đó khiến Bắc Kinh nổi giận. Nên đến tháng 5-2008, khi về dự lễ Vesak thì nhà cầm quyền Trung Quốc đã yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội trục xuất ông.
Đầu tháng 7, Hồ Tỏa Cẩm, Tham tán Kinh tế Thương mại, thừa ủy quyền đại sứ Trung Quốc tại VN, đã ngang nhiên “nhắc nhở” Hà Nội (mà Hà Nội vẫn im thin thít) về việc một số chuyên viên và cơ quan truyền thông VN (trong cuộc tọa đàm hôm 16-06 tại tòa báo VietNamNet) đã dám chỉ trích chất lượng hàng hoá Trung Quốc, và yêu cầu Hà Nội khuyến cáo nhân sự này. Ngoài ra, trong lúc Bắc Kinh đang bị thế giới lên án gay gắt vì đã giết chết 156 người và làm bị thương 1000 người Uyghur tại thủ đô Urumqi, Tân Cương hôm mồng 5-7-2009 thì Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao, lại tuyên bố rằng VN tán đồng các giải quyết của Trung Quốc tại đó.
Tất cả những sự kiện trên đây, và còn vô vàn sự kiện khác nữa, cho thấy CSVN đã và đang vuốt đuôi Trung Quốc, kể cả những vuốt đuôi mang tính nhục nhã và tai hại, do chỗ bàn tay lông lá của Trung Quốc không bao giờ ngưng động đậy trên đầu và sau lưng các lãnh đạo CSVN.
Ông Ngô Đình Nhu lúc sinh tiền từng nói : “Tiêu diệt chế độ này [Đệ I Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm] thì chỉ sau khoảng một giáp, Việt Cộng sẽ thắng. Sau đó chừng vài giáp, một là hết Việt Cộng, hai là Trung Cộng sẽ thôn tính VN”. Phải chăng lời tiên tri ấy sắp thực hiện ? Trước tình thế nguy cấp này, phận sự của mọi người dân Việt, trong đó có các tín đồ, là phải chống nội thù bán nước trước để chống ngoại thù cướp nước sau. Dù tôn giáo không “thay thế các hữu trách chính quyền”, nhưng trong trường hợp này (như tại Đông Âu và Liên Xô), phải góp công “thay thế cả một chính quyền” bất chính, bất lực và bất nhân, thưa Quý vị lãnh đạo tinh thần, bằng không thì sẽ mắc tội với Tổ quốc, Dân tộc!.
Ban Biên Tập (số 79, ngày 15-07-2009)
-Nhấn vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1 file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So79_15July2009.pdf
....................................................................................................
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận
Quán tính thống trị, thống trị theo kiểu bạo chúa và quán tính thần phục, thần phục đến độ nô lệ, là hai trong những nét đặc trưng của các đảng Cộng sản và các chế độ Cộng sản. Nói cách khác, chủ nghĩa CS chưa bao giờ là một chủ nghĩa để xây dựng một chính đảng hay một quốc gia có tinh thần độc lập với những thành viên tự do. Nó là chủ nghĩa cá lớn hiếp cá bé một cách tàn bạo: Đảng CS lớn hiếp đảng CS bé, và đảng viên CS to hiếp đảng viên CS nhỏ (chưa kể đảng CS hiếp đáp toàn thể nhân dân mình). Điều này thấy rõ qua sự khống chế tàn khốc của Cộng hòa Nga đối với 14 cộng hòa còn lại trong Liên bang Xô viết trước đây; sự can thiệp thô bạo của đảng CS Liên Xô vào các đảng CS Đông Âu lẫn các đảng CS nhỏ khắp thế giới, kể cả các đảng CS tại những quốc gia tư bản trước năm 1990; sự uy hiếp trắng trợn của đảng CS Trung Quốc đối với các đảng CS ở Đông Dương lúc này… Riêng trong mỗi đảng CS là sự thống trị kiểu bạo chúa của Bộ chính trị trên các đảng viên bên dưới và của kẻ quyền lực nhất trên các thành viên còn lại của Bộ Chính trị.
Rumani từng phải đào một thủy lộ lớn -với giá hàng trăm ngàn sinh mạng công dân của mình- để chuyên chở tài sản đất nước qua Liên Xô. Maurice Thorez và đảng CS Pháp từng ca tụng Liên Xô “đã đào tạo con người trưởng thành rất sớm” khi Stalin hạ mức án tử hình xuống ngang 14 tuổi. Một đảng viên CS Đông Đức từng mặc áo mưa, tay che dù đi giữa trời nắng tại Berlin chỉ vì lúc ấy bên Moskva trời đang mưa xối xả. Hồ Chí Minh từng tuyên bố trên quả địa cầu này, ai cũng sai lầm hết, trừ hai lãnh tụ bất khả ngộ là Stalin và Mao. Stalin từng giết hết tất cả các ứng viên kế vị Lênin trong Bộ Chính trị để trở thành “Người Số một”. Mao cũng từng thanh trừng các đại đồng chí như Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ, chỉ chừa lại Chu Ân Lai vốn tôn sùng Mao như một tên nô lệ…
Đảng CSVN, sau thời kỳ ban đầu tùng phục hai đàn anh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, đã chuyển sang tùng phục Liên Xô và kết án Trung Quốc thậm tệ (xem cuốn “Sự thật về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua” do bộ Ngoại giao CSVN công bố ngày 04-10-1979). Sau khi Liên Xô sụp đổ đầu năm 1990, CSVN quay lại thần phục Trung Quốc vì không còn biết tìm chỗ dựa nơi nào khác qua màn “thú tội, qui hàng” ô nhục tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, TQ, vào tháng 9 cùng năm này. Quán tính thần phục do vô tổ quốc, vô dân tộc mà lỵ! Kể từ thời điểm đó, sự lệ thuộc chủ-tớ, sự gắn bó răng-môi, sự kết nối ca-đệ ngày càng khiến Việt Cộng sa vào vòng tay Trung Cộng, Nam phiên cuốn vào quỹ đạo Bắc triều. Mối quan hệ này được đánh dấu bằng những hiệp định bất bình đẳng về biên giới và vịnh biển năm 1999 và 2000, bằng những cuộc khấu đầu bái yết của các tân tổng bí thư, tân bộ chính trị CSVN sau từng đại hội đảng, bằng những cuộc trình báo xin phép của các phái đoàn CSVN trước khi đi thương lượng với chính giới Mỹ-Âu, bằng những tuyên bố chung bất lợi cho VN năm 2001, 2008 (về khai thác bauxite), bằng những công trình đang được khai triển ở VN và các quốc gia lân cận như xây dựng xa lộ Trường Sơn, mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua Quảng Trị, xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi, khai thông lòng Cửu Long để tàu vận tải nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội, miễn hộ chiếu cho người Trung Quốc vào tận mũi Cà Mau, cho phép hình thành những làng Tàu từ Nam chí Bắc và đặc biệt là để cho Trung Quốc khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Nhưng đau thương nhất và ô nhục nhất, mối quan hệ Việt Trung ấy được đánh dấu bằng những cuộc tàn sát, bắt bớ, cướp bóc ngư dân VN trên biển kể từ năm 2005 đến giờ mà CSVN chỉ phản kháng lấy lệ đôi lần, ngoài ra không có hành động gì cụ thể đối với Trung Quốc lẫn trước quốc tế (xin xem Kháng thư số 25 của Khối 8406) và bằng những cuộc cấm cản, bắt bớ, xử tù những ai khơi dậy tinh thần phản kháng quân Tàu. Bàn tay lông lá của Trung Quốc quả đã thọc sâu và thô bạo!
Đầu tiên có lẽ phải kể đến vụ xử nhà luật học trẻ Lê Chí Quang vào ngày 08-11-2002, đúng hôm khai mạc Đại hội đảng CS Trung Quốc lần thứ 16. Đây là món quà kính tiến và tạ lỗi với Đại ca vì đã lỡ để cho một tên nhãi nhép công bố khắp thế giới bài “Hãy cảnh giác Bắc Triều” viết cách đó một năm. Tiếp đến là việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, nghệ sĩ, dân oan vào các ngày 09, 16, 23-12-2007 chống Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba quần đảo biển Ðông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của nước Việt; việc dẹp cuộc biểu tình của sinh viên ngày 19-01-2008 để tưởng niệm 34 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, khiến cho 58 lính hải quân VNCH tử trận vì bảo toàn lãnh thổ; việc dẹp cuộc biểu tình ngày 29 và 30-04-2008 của sinh viên học sinh và giới dân chủ phản đối việc rước đuốc Olympic Bắc Kinh qua Sài Gòn; rồi việc dẹp cuộc biểu tình ngày 06-12-2008 của thanh niên sinh viên trước Đại sứ quán lẫn Lãnh sự quán Trung Quốc để phản kháng nước này đã chi gần 30 tỉ Mỹ kim hầu khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc chủ quyền VN.
Tiếp đến là một loạt bắt bớ các nhà dân chủ có tinh thần chống Trung Quốc, mà đầu tiên là luật sư Lê Công Định hôm 13-06-2009, một ngày sau chuyến viếng thăm của Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trung Cộng. Ngoài lý do gọi là “tuyên truyền và hoạt động chống nhà nước, vi phạm điều 88” của vị luật sư này, còn có lý do sâu xa là ông đã dự định kiện ra quốc tế việc Tàu xâm phạm hải phận Việt và cấm ngư dân Việt đánh cá trên biển Đông.
Vụ bắt hai nhà dân chủ, một già một trẻ là Trung tá Trần Anh Kim và thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung ngày 07-07 cũng không ngoài lý do sâu xa là chống Trung Quốc. Chính bản tin báo Công an mạng cùng ngày viết: “Bên cạnh đó [việc thành lập Tập hợp thanh niên Dân chủ và tham gia đảng Dân chủ Nhân dân], Trung còn kích động sinh viên, thanh niên biểu tình gây rối tại Hà Nội và TP HCM trong các ngày 9, 16, 23-12-2007 và ngày 29-04-2008”. Nhà dân chủ trung tá Trần Anh Kim là một cựu chiến binh và cựu chỉ huy trong trận chiến biên giới với Trung Quốc ngày 17-02-1979, một cuộc chiến mà Hà Nội nay không muốn làm lễ kỷ niệm. Chính ông đã viết bài “Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc sau 30 năm ! Kỷ niệm 30 năm chiến đấu, chiến thắng quân Bành trướng bá quyền Bắc Kinh”.
Trước vụ Trần Anh Kim hai tuần, kỳ họp thứ 5 của Quốc hội CSVN khóa XII -bế mạc hôm 20-06 với lời kết luận của chủ tịch Nguyễn Phú Trọng là QH đồng thuận về việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên- đã như một gáo nước lạnh dội lên những bức thư cảnh tỉnh của đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều tướng lãnh, những phản biện đầy tinh thần trách nhiệm của các nhà khoa học VN trong lẫn ngoài nước, những chữ ký nơi bản kiến nghị của trên 2000 nhà trí thức ái quốc, những lời phát biểu thẳng thắn của vài đại biểu Quốc hội trước sự mất còn của dân tộc trước hiểm họa Bắc triều. Bộ Chính trị Việt Cộng vẫn như con rối dưới sự điều khiển của bàn tay lông lá Trung Cộng, một bàn tay sắt thủ sẵn nhiều hăm dọa tiết lộ những bí mật động trời của đảng CSVN, bọc trong một cái găng nhung là hàng trăm triệu đôla tọng vào miệng các thành viên bộ Chính trị, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng, theo như dư luận đồn đoán.
Đến ngày 29-06, một vụ đàn áp làm giới Phật tử ở trong lẫn ngoài nước kinh ngạc đã xẩy ra tại Tu viện Bát Nhã thuộc xã Dambri, tỉnh Lâm Ðồng. Gần 400 tăng ni và cư sĩ đang tu tập ở đó đã bị cắt điện cắt nước, phá cửa phá nhà, chửi bới đánh đập và có thể bị đuổi khỏi tu viện bởi nhà cầm quyền phối hợp với Phật giáo quốc doanh, công an cảnh sát và đầu gấu côn đồ. Một trong những lý do sâu xa là người sáng lập tu viện, thiền sư Nhất Hạnh, từng tuyên bố tại Roma đầu năm 2008 những lời ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng (03-2008) khi được báo chí phỏng vấn. Ông cũng từng đề nghị ban tổ chức đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc nên mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới VN tham dự lễ này. Những ý kiến đó khiến Bắc Kinh nổi giận. Nên đến tháng 5-2008, khi về dự lễ Vesak thì nhà cầm quyền Trung Quốc đã yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội trục xuất ông.
Đầu tháng 7, Hồ Tỏa Cẩm, Tham tán Kinh tế Thương mại, thừa ủy quyền đại sứ Trung Quốc tại VN, đã ngang nhiên “nhắc nhở” Hà Nội (mà Hà Nội vẫn im thin thít) về việc một số chuyên viên và cơ quan truyền thông VN (trong cuộc tọa đàm hôm 16-06 tại tòa báo VietNamNet) đã dám chỉ trích chất lượng hàng hoá Trung Quốc, và yêu cầu Hà Nội khuyến cáo nhân sự này. Ngoài ra, trong lúc Bắc Kinh đang bị thế giới lên án gay gắt vì đã giết chết 156 người và làm bị thương 1000 người Uyghur tại thủ đô Urumqi, Tân Cương hôm mồng 5-7-2009 thì Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao, lại tuyên bố rằng VN tán đồng các giải quyết của Trung Quốc tại đó.
Tất cả những sự kiện trên đây, và còn vô vàn sự kiện khác nữa, cho thấy CSVN đã và đang vuốt đuôi Trung Quốc, kể cả những vuốt đuôi mang tính nhục nhã và tai hại, do chỗ bàn tay lông lá của Trung Quốc không bao giờ ngưng động đậy trên đầu và sau lưng các lãnh đạo CSVN.
Ông Ngô Đình Nhu lúc sinh tiền từng nói : “Tiêu diệt chế độ này [Đệ I Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm] thì chỉ sau khoảng một giáp, Việt Cộng sẽ thắng. Sau đó chừng vài giáp, một là hết Việt Cộng, hai là Trung Cộng sẽ thôn tính VN”. Phải chăng lời tiên tri ấy sắp thực hiện ? Trước tình thế nguy cấp này, phận sự của mọi người dân Việt, trong đó có các tín đồ, là phải chống nội thù bán nước trước để chống ngoại thù cướp nước sau. Dù tôn giáo không “thay thế các hữu trách chính quyền”, nhưng trong trường hợp này (như tại Đông Âu và Liên Xô), phải góp công “thay thế cả một chính quyền” bất chính, bất lực và bất nhân, thưa Quý vị lãnh đạo tinh thần, bằng không thì sẽ mắc tội với Tổ quốc, Dân tộc!.
Ban Biên Tập (số 79, ngày 15-07-2009)
-Nhấn vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1 file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So79_15July2009.pdf
....................................................................................................
Inscription à :
Commentaires (Atom)
