mercredi 30 septembre 2009

Yếu Tính Viễn Kiến Trong Cách Mạng

Bài của Luật Sư Ðào Tăng Dực

Việt Nam và Trung Quốc sẽ là những nước dân chủ. Vấn đề không phải là sẽ dân chủ hay không, mà vấn đề là vào thời điểm nào. Chính các người Cộng Sản tại hai quốc gia này cũng phải công nhận tính bất khả vãn hồi của tiến trình dân chủ hóa đó. Cũng chính đương kim thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, trong một cuộc phỏng vấn của Chương Trình GPS trên CNN, ngày 23 tháng 8, 2009, đã nhắc đến xác xuất hình thành của một nền dân chủ lưỡng đảng tại Trung Quốc trong 25 năm. Trong khi đó tại Việt Nam, thủ tướng CSVN là Nguyễn Tấn Dũng thì chỉ im lặng nắm quyền và không có quan điểm nào cả. Ðiều này nói lên khoảng cách rất xa giữa phẩm chất của người nắm quyền CSVN và CSTQ, nhất là tính thiếu viễn kiến trầm trọng của giới lãnh đạo CSVN như sẽ trình bày sau.

Dĩ nhiên 25 năm là một thời điểm xa vời và chỉ có thể là giấc mơ kéo dài quyền lực của những lãnh tụ độc tài Trung Quốc. Dân tộc Trung Hoa sẽ không nhẫn nại như họ mong muốn. Những cuộc cách mạng lật đổ các chế độ độc tài đương nhiên sẽ xảy ra tại Trung Quốc và Việt Nam, vì các dân tộc này kỳ vọng và xứng đáng được những quyền tự do căn bản mà phần lớn nhân loại đang hưởng thụ.

Mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm góp phần vào cuộc cách mạng dân chủ hóa đất nước đó.

Ðể ý thức rõ hơn về trách nhiệm cao quý này của toàn dân, chúng ta phải hiểu danh từ “cách mạng” có nghĩa là gì?

Trên phương diện chính trị, cách mạng có nghĩa là thay đổi một trật tự xã hội này bằng một trật tự xã hội khác. Hàm chứa trong trật tự xã hội mới là một luồng tư tưởng chỉ đạo khắc chế trật tự xã hội bị thay thế. Thông thường đây là một sự thay đổi có tính đột biến và đổ máu. Tuy nhiên đổ máu không nhất thiết phải xảy ra. Các cuộc cách mạng lật đổ các chế độ Cộng Sản tại Ðông Âu và Liên Bang Xô Viết đã kết thúc trong tinh thần bất bạo động.

Vào thời điểm Việt Nam và Trung Quốc chuyển mình trở thành những chế độ dân chủ đa đảng thật sự, thì sự chuyển mình này có thể được nghiêm chỉnh định nghĩa như là một cuộc cách mạng và xác xuất mang tính bất bạo động rất cao.

Trong quá khứ, hai chữ “cách mạng” được sử dụng trong ý nghĩa tích cực, vì những người muốn thay đổi một trật tự xã hội hiện hành luôn luôn hy vọng trật tự xã hội mới, mà mình cưu mang, sẽ đem lại một tương lai tươi đẹp hơn cho dân tộc họ.

Tuy nhiên lịch sử chứng minh rằng thực tế không phải luôn luôn như thế.

Trái lại, cho thấy mọi cuộc cách mạng dù tiến bộ và tích cực đến đâu, đều có khuyết điểm và cần phải tu chính thêm. Hơn nữa có những cuộc cách mạng không những hoàn toàn vắng bóng những yếu tố tích cực, mà còn mang lại tại họa cho dân tộc xuyên qua nhiều thế hệ. Ðiển hình là các cuộc cách mạng Cộng Sản và Hồi Giáo cực đoan mà chúng ta sẽ phân tách trong bài này.

Chúng ta cũng sẽ phân tách tầm mức quan trọng chiến lược của yếu tố viễn kiến trong nhận thức của những người lãnh đạo. Yếu tố viễn kiến giữ một vai trò tối quan trọng, giúp chúng ta phân biệt giữa một cuộc cách mạng có tính tiến bộ và một cuộc cách mạng mang tính phản tiến bộ, gây tai họa cho một dân tộc và đôi khi cả nhân loại.

Thế nào là yếu tố viễn kiến trong cách mạng?

Một cách vắn tắc, trên phương diện tiêu cực, viễn kiến trong cách mạng là khả năng đo lường và khống chế những tác hại từ tính đột biến của cách mạng, khi thay đổi một trật tự xã hội này bằng một trật tự xã hội khác. Trên phương diện tích cực, viễn kiến là khả năng nuôi dưỡng lâu dài những phúc lợi cho dân tộc qua thành quả của cuộc cách mạng.

Như vậy viễn kiến sẽ có những đường nét sau đây:

1. Có lý tưởng tích cực hướng về một tương lai xán lạn hơn cho dân tộc hoặc nhân loại.

2. Ý thức một cách sâu sắc rằng một cuộc cách mạng hướng về tương lai, không thể đoạn tuyệt với quá khứ của một dân tộc. Trái lại phải tích cực tiếp nối quá khứ đó.

3. Tính tích cực của một cuộc cách mạng không nhất thiết là phản đề của yếu tố ôn hòa bất bạo động.

4. Một tổ chức cách mạng nghiêm chỉnh phải tạo cho mình khả năng khống chế những thành phần quá khích và ý thức hệ giáo điều.

5. Một tổ chức cách mạng trưởng thành phải bao gồm trong cấu trúc của mình một cơ chế đủ mạnh để dẹp tan mọi khuynh hướng thể chế hóa phương tiện.

6. (institutionalisation des moyens) hiểu theo nghĩa của tư tưởng gia người Pháp Bertrand De Jouvenel (1903-1987) như sẽ giải thích sau.

Khi đánh giá những cuộc cách mạng và những nhân vật lãnh đạo, chúng ta cần phải nhìn bản chất của các cuộc cách mạng và hậu quả lâu dài trên tiền đồ của đất nước. Sự thành công hay thất bại vào thời điểm của cuộc cách mạng bùng nổ không phải là yếu tố quyết định.

Magna Carta năm 1215:

Khi chúng ta nhìn lại lịch sử của các cuộc cách mạng đem lại các quyền tự do chính trị hiện nay cho loài người, thì không có biến cố nào quan trọng bằng cuộc cách mạng năm 1215 tại Anh Quốc khi các nhà quý tộc (barons) tại nước này liên kết với những “người tự do” (freemen) vốn là những thường dân được đặc quyền sống trong các thành phố. Liên minh này buộc vua John của Anh Quốc ký một văn kiện lịch sử gọi là Magna Carta (Great Charter of Liberties). Văn kiện này là tiền thân của English Bill of Rights 1689, American Bill of Rights và Canadian Bill of Rights. Magna Carta (chỉ áp dụng cho những freemen) công nhận một số nhân quyền chính đáng, xác nhận vương quyền không thể đứng trên luật pháp và quyền được kháng cáo để pháp luật duyệt xét khi một người bị bắt giam (habea corpus), (xem Wikipedia: Magna Carta). Tuy cuộc cách mạng Magna Carta, so với bối cảnh chính trị ngày hôm nay, có tính thô sơ, đơn giản và không ngó ngàng đến vận mệnh của đại đa số người dân Anh Quốc thời bấy giờ tiếp tục cuộc sống của những nông nô. Tuy nhiên vào thời điểm đó tính cách mạng của nó không thể chối bỏ.

Ở một mức độ nào đó thì ngày hôm nay, toàn dân Việt Nam vẫn chưa đạt đến những quyền căn bản mà những freemen tại Anh Quốc đạt được vào thế kỷ 13: Tại Việt Nam, vào thế kỷ 21 qua điều 4 hiến pháp, Ðảng CSVN vẫn đứng trên và ngoài luật pháp và người dân Việt Nam vẫn chưa có quyền habea corpus như ghi nhận trong Magna Carta.

Sau khi Magna Carta được ký kết, văn kiện này có một định mệnh nổi trôi xuyên qua lịch sử lâu dài của Anh Quốc. Khi thì được tôn trọng. Khi thì vương quyền lấn lướt và vứt vào sọt rác của thời đại. Khi thì được nâng niu, trùng tu và ca tụng. Tuy nhiên, cùng với sự tranh đấu không ngừng của toàn dân, qua văn kiện lịch sử này, vào cuối thế kỷ 19, Anh Quốc đã có một nền dân chủ rất tiến bộ so với nước Pháp dưới triều vua Louis 16.

Các nền dân chủ tại Anh Quốc và Hoa Kỳ là những nguồn cảm hứng của nhiều nhà lãnh đạo cuộc cách mạng Pháp năm 1789 như chúng ta sẽ thảo luận sau. Dĩ nhiên trước đó, cuộc cách mạng Hoa Kỳ thành công được là vì đã được dân tộc Pháp tài trợ về vũ khí và ngân lượng. Ðồng thời, những nhà cách mạng Hoa Kỳ cũng đã sử dụng những tư tưởng vô cùng tiến bộ và sâu sắc của các lỳ thuyết gia chính trị người Pháp.

Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ ngày 4 tháng 7 năm 1776:

Tinh thần của cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 được diễn tả trọn vẹn qua câu văn bất hủ sau đây trong bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ:

“Chúng tôi khẳng định những sự thật hiển nhiên rằng mọi người đều sinh ra bình đẳng, rằng tạo hóa ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu tìm hạnh phúc.”

Ðây là đoạn văn được nhắc nhở đến nhiều nhất trong lịch sử chính trị cận kim. Thomas Jefferson là tác giả của Tuyên Ngôn Ðộc Lập và của đoạn văn này. Tuy bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập không phải là hiến pháp của Hoa Kỳ nhưng nó quan trong đến mức độ nhiều luật gia nổi tiếng, trong đó có cựu Tổng Thống Abraham Lincoln cho rằng, mọi sự diễn giải hiến pháp đều phải dựa vào tinh thần của bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập này.

Cuộc cách mạng Hoa Kỳ xảy ra vì 13 tiểu bang đầu tiên không chấp nhận sự kiện họ phải tiếp tục đóng thuế cho chính quyền vương triều Anh Quốc, mà không được quyền bầu người đại diện cho mình vào quốc hội Anh Quốc. Phương châm của cuộc cách mạng này đơn giản là: Không đóng thuế nếu không có người đại diện (No taxation without representation).

Vương quyền Anh Quốc không chấp nhận điều này. Cuộc chiến tranh cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ xảy ra dưới sự lãnh đạo của Tướng George Washington và sự viện trợ võ khí cũng như tài chánh hùng hậu của Pháp Quốc, vốn là đối thủ của Anh Quốc từ nhiều thế kỷ.

Ngày 17 Tháng 9 năm 1787, bản Hiến Pháp Hoa Kỳ được chính thức công bố. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng Hoa Kỳ bắt đầu năm 1776 nhưng hoàn tất 11 năm sau đó. James Madison, Thomas Jefferson và Alexander Hamilton đã đóng góp trí tuệ của mình để hoàn thành văn bản lịch sử này. Ngoài việc là những nhà cách mạng, họ còn là những tư tưởng gia sâu sắc và chịu ảnh hưởng nhiều của các tư tưởng gia Âu Châu trước đó như Montesquieu (1689-1755) với quan điểm Tam Quyền Phân Lập (Separation of Powers) và John Locke (1632-1704) với quan điểm Pháp Trị (Rule of Law hoặc Due Process).

Cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã là nguồn cảm hứng cho nhiều cuộc cách mạng lẫn cải cách chính trị tiếp theo trên khắp thế giới. Tuy nhiên cuộc cách mạng này, lẫn hiến pháp của Hoa Kỳ vẫn còn nhiều khuyết điểm và tạo ra nhiều bất công.

Các điều này đã được phân tích trong bài: “Những Khuyết Ðiểm của Nền Dân Chủ Hoa Kỳ” cùng một tác giả. Nơi đây, chúng ta chỉ nhắc đến 2 khuyết điểm trọng đại nhất và sẽ bàn luận nhiều hơn vào cuối bài tham luận này:

Trước hết cuộc cách mạng Hoa Kỳ căn bản không phải là một cuộc nổi dậy của toàn dân chống lại vương quyền. Ðây là một cuộc nổi dậy của giới địa chủ (landed gentry) chống lại chính sách thuế khóa của vương quyền mà họ cho là bất công. Chính vì thế hiến pháp Hoa Kỳ cho đến bây giờ vẫn ghi nhận “electoral college votes” như là những lá phiếu quyết định trong việc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, không phải là lá phiếu trực tiếp của người dân. Những người như Thomas Jefferson, Madison, Alexander Hamilton xuất thân từ giới địa chủ. Vào thời điểm đó của lịch sử, giai cấp của họ đương nhiên trở thành những electors nắm giữ electoral college votes.

Tiếp theo đó, bất công thứ nhì là số phận và quyền lợi của những người nô lệ da đen không hề được công nhận trong hiến pháp.

Mãi đến giai đoạn chiến tranh Nam Bắc, Tổng Thống Abraham Lincoln (1809-1865) mới hoàn tất việc giải phóng những người nô lệ da đen. Có thể nói rằng công trình vĩ đại này của Abraham Lincoln là một sự trùng tu không thể thiếu cho cuộc cách mạng Hoa Kỳ.

Nếu không có công cuộc giải phóng nô lệ này thì nền dân chủ Hoa Kỳ, từ lâu, đã mất đi lẽ sống và hấp lực của nó.

Cuộc cách mạng Pháp 14 tháng 7 Năm 1789:

Pháp là quê hương của những tư tưởng gia chính trị lừng danh của thời Ánh Sáng tại Tây Âu như Montesquieu, Jean Jacques Rousseau, Voltaire. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 18, nước Pháp lại có một chế độ vương quyền, phong kiến lạc hậu và đầy rẫy bất công, so với Anh Quốc phía bắc và Hoa Kỳ bên kia bờ Ðại Tây Dương. Thêm vào đó ngân sách quốc gia bị thâm thủng nặng nề vì sự hoang phí của triều đình vua Louis 16, và những sự viện trợ rộng rãi cho các tiểu bang Hoa Kỳ chống lại Ðế Quốc Anh. Dân chúng Pháp mọi tầng lớp đều phẫn uất vì sự liên kết giữa Hoàng Tộc, Giáo Hội Công Giáo (vốn sở hữu nhiều đất đai) và giới quý tộc để bóc lột dân đen.

Dân chúng nổi loạn và khẩu hiệu tiêu biểu của cuộc cách mạng Pháp là: Tự Do, Công Bằng và Hữu nghị (Liberté, Egalité et Fraternité).

Tuy nhiên nếu ta duyệt xét văn kiện tinh thần của cuộc cách mạng này, chúng ta sẽ thấy những giá trị sâu sắc vượt lên trên tính căm thù giai cấp của nó.

Thực vậy, Bản Tuyên Ngôn về nhân quyền và các quyền công dân ngày 26 tháng 8 năm 1789 (Declaration des droits de l’homme et du citoyen) gồm 17 điều khoản bao gồm các quan điểm căn bản được tác giả tóm lược như sau:

1. Quyền tự do và bình đẳng.

2. Quyền lập hội chính trị, tư hữu, sự an toàn, chống lại áp bức.

3. Quyền lực tối thượng nằm nơi quốc dân.

4. Tự do là một quyền tự nhiên. Chỉ có luật pháp chính đáng mới giới hạn được.

5. Luật pháp có giới hạn của nó. Con người có quyền làm những điều luật pháp không ngăn cấm.

6. Luật pháp phát xuất từ dân ý. Mọi người đều có quyền giữ các chức vụ chính quyền theo khả năng.

7. Không ai có thể bị bắt hoặc giam cầm trái luật.

8. Hình phạt chỉ áp dụng khi cần thiết và luật pháp không áp dụng hồi tố.

9. Mọi người đều được giả định vô tội trước khi bị kết án.

10. Tự do tư duy.

11. Tự do trao đổi quan điểm.

12. Công quyền mục đích phục vụ cho toàn dân, không phải cho kẻ nắm quyền.

13. Ðóng thuế tùy theo khả năng trả thuế.

14. Nhu cầu thu thuế phải được chứng minh.

15. Mọi công cụ chính quyền phải chịu trách nhiên trước xã hội.

16. Bất cứ xã hội nào cũng phải bảo đảm các quyền nêu trên và áp dụng nguyên tắc phân quyền.

17. Tài sản là quyền tối thượng, chỉ có thể bị thu hồi nếu được bồi thường công bằng và trước khi tịch thu.

Cuộc cách mạng Pháp là một cuộc cách mạng đẫm máu. Số người chết khỏang 170,000 đến 250,000 tức 1% dân số vào thời điểm đó. Nếu dân số nước Pháp bây giờ là 60 triệu thì con số người chết tương tự sẽ là 600,000 người.

Mặc dầu cuộc cách mạng Pháp thất bại và bị đế quyền Nã Phá Luân (Napoleon) thanh tóan. Tuy nhiên những lý tưởng đầy viễn kiến của nó vẫn được nuôi dưỡng trong lòng những sĩ quan Pháp trẻ tuổi trong đoàn quân viễn chinh của Nã Phá Luân lan tràn khắp Âu Châu. Thêm vào đó, cuộc cách mạng này đi xa hơn cuộc cách mạng Hoa Kỳ trên 3 phương diện:

a. Quan điểm phân biệt giữa giáo quyền và thế quyền (church and state) nguyên thủy phát xuất từ triết gia Anh Quốc là John Locke. Tuy nhiên cuộc cách mạng Pháp là một đường gươm dứt khoát phân chia ranh giới giữa giáo quyền và thế quyền một cách triệt để. Quan điểm này của John Locke cũng được đưa vào hiến pháp Hoa Kỳ qua điều tu chính thứ nhất (First amendment) vào năm cuối của cuộc cách mạng Pháp, và được thông qua hai năm sau đó (1791). Ðây là một bước đi cần thiết và đầy viễn kiến của cách mạng Pháp, không những đối với những quốc gia Tây Phương thời bấy giờ (khi Giáo Hội La Mã sở hữu nhiều đất đai và không ngần ngại xen lấn vào chính trị) nhưng cũng là một kinh nghiệm lịch sử các quốc gia Hồi Giáo cần phải học hỏi trong tương lai, trên con đường xây dựng dân chủ và hòa bình thế giới.

b. Nó đánh dấu sự vùng dậy của giai cấp thứ 3 là giới bình dân (Tiers Etat), lật đổ giai cấp thứ nhất là giáo hội (Premier Etat) và giai cấp thứ nhì là quý tộc (Deuxieme Etat), cũng như vương quyền (đứng trên và ngoài các giai cấp): Ngay trong những năm đầu của cuộc cách mạng, giai cấp dân nghèo (sans culottes) đã đóng góp tích cực. Trên phương diện đấu tranh, tính cách mạng của nó cao hơn cuộc cách mạng Hoa Kỳ.

c. Cũng vì yếu tính phát xuất từ quyền lợi của giai cấp thấp nhất trong xã hội mà cuộc cách mạng Pháp trở thành nền tảng của những chế độ dân chủ đa nguyên triệt để, thay vì những chế độ nhị nguyên chính trị như Hoa Kỳ, hoặc ngay cả Anh Quốc (vì tuy Anh Quốc có hơn 2 đảng chính trị nhưng trên thực tế chỉ có 2 đảng là có thực quyền).

Cuộc cách mạng Pháp, cũng như nhiều cuộc cách mạng sau đó đều có sự tham gia của nhiều đảng phái và phe nhóm khác nhau. Tuy nhiên, vào giai đoạn nghiêm trọng nhất thì những thành phần ôn hòa bị các thành phần cực đoan (Jacobins và Sans Culottes) khống chế. Robespierre, Dalton và Hébert là tiêu biểu cho các lực lượng cực đoan này. Nếu không có họ, cuộc cách mạng Pháp đã ít đổ máu hơn, nhất là máu của Hoàng Gia, Giáo Hội và các nhà quý tộc. Nước pháp cũng có xác xuất trở thành quốc gia quân chủ lập hiến đầu tiên có một bản hiến pháp thành văn.

Mặc dầu chính Robespierre cuối cùng cũng bị đưa lên đoạn đầu đài, quá nhiều đầu đã rơi và máu đã đổ. Cuộc cách mạng Pháp đã đi quá đà trong lòng dân.

Nếu không có những thành phần quá khích, và nước Pháp chuyển mình, từ một trật tự xã hội quân chủ phong kiến bất công, sang một nền dân chủ trong hòa bình, thì sẽ không còn cơ hội nào cho Nã Phá Luân sử dụng quân đội để khai tử cuộc cách mạng Pháp, xây dựng đế chế và đem toàn thể Âu Châu tắm máu chiến tranh. Lịch sử của nhân loại có thể sẽ hoàn toàn khác ngày hôm nay nếu không có Robespierre.

Tuy không khống chế được trọn vẹn những phần tử quá khích trong cuộc cách mạng, nhưng cuộc cách mạng Pháp vẫn là một cuộc cách mạng mang nhiều yếu tố viễn kiến. Lý do là vì những tư tưởng chỉ đạo của cuộc cách mạng này phát xuất từ trong lòng nền văn hóa Pháp trải qua suốt thời kỳ Ánh Sáng, vốn là giai đoạn sáng tạo nhất của Tây Âu. Những tư tưởng chỉ đạo này trở thành kim chỉ nam cho những chính trị gia nhiều thế hệ tiếp theo, không những tại Pháp mà con trên năm châu bốn bể khắp quả địa cầu. Hầu như sự thất bại của cuộc cách mạng 1789 trở thành yếu tố thần thoại hóa những nhân vật lãnh đạo để họ sống mãi trong lòng dân tộc Pháp. Nếu cuộc cách mạng trường tồn và, dưới ảnh hưởng của tiến trình thể chế hóa phương tiện (như sẽ giải thích sau), nhóm Jacobin hoặc một nhóm nào khác, trở thành một đảng phái độc tài, gieo rắc đau thương cho cả một thế hệ tại Pháp, thì hào quang của những người lãnh đạo đã lu mờ trong lịch sử.

Cuộc cách mạng Tân Hợi ngày 10 tháng 10 năm 1911 tại Trung Hoa:

Triều đình Mãn Thanh bảo thủ và thối nát. Trung Hoa là một người khổng lồ bệnh hoạn. Tôn Dật Tiên thành lập Trung Quốc Ðồng Minh Hội năm 1905 gồm 3 tổ chức chính (Hoa Hưng Hội, Hưng Trung Hội và Quang Phục Hội) và một số lực lượng khác. Tôn Dật Tiên là một nhà cách mạng lớn của Trung Hoa và khởi xướng chủ thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa. Vào giai đoạn khởi thủy, những đường nét chính của chủ thuyết này được ông khai triển để làm kim chỉ nam cho các đồng chí của ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi. Sau khi cách mạng Tân Hợi thành công năm 1911, ông được bổ nhiệm làm lâm thời Ðại Tổng Thống một thời gian ngắn.

Chủ Thuyết Tam Dân được ông viết thành sách và xuất bản năm 1927 bao gồm các yếu tố căn bản sau đây:

1. Dân tộc: Lấy quốc gia dân tộc làm trọng, để chống lại một mặt chủ nghĩa thực dân đế quốc, và mặt khác ngăn chận các khuynh hướng chia rẽ Trung Quốc thành nhiều chủng tộc khác nhau như Mông, Mãn, Hán, Hồi (và “Tạng” sau khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng).

2. Dân Quyền: Ông quan niệm dân quyền phải được chia làm 2 loại:

a. Chánh quyền là quyền của dân, gồm quyền bầu cử, đề nghị dự luật, biểu quyết bãi nhiệm chính quyền hay công chức,và quyền phủ quyết các luật pháp.

b. Trị quyền là quyền của chính phủ gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát và khảo thí (gọi là Ngũ Quyền Phân Lập).

3. Dân sinh: chú vào 2 trọng tâm là bình quân địa quyền và tiết chế tư bản. Chủ trương của ông tương tự một “welfare state” như ngày hôm nay tại Úc Châu, Gia Nã Ðại hoặc các quốc gia Tây Âu. Ông muốn dung hòa quyền lợi của tư bản và thợ thuyền, giảm thiểu hố sâu giữa kẻ giàu và người nghèo. (Xem Dương Thành Lợi, Triết Lý Quốc Trị Ðông Phương, tt 342-367).

Năm 1912 Trung Hoa Quốc Dân Ðảng được thành lập và ông trở thành chủ tịch sáng lập. Tuy nhiên mãi đến năm 1924 Trung Hoa Quốc Dân Ðảng mới chính thức công nhận Tam Dân Chủ Nghĩa của ông như là chủ thuyết đấu tranh của đảng.

Trên thực tế, sự thành công của cuộc cách mạng Tân Hợi chỉ tạm thời. Các thế lực bảo thủ còn quá mạnh. Năm 1913 ông phải từ chức và nhường quyền cho một cựu đại thần triều đình cũ là Viên Thế Khải làm Ðại Tổng Thống. Viên Thế Khải muốn tái lập vương quyền nhưng sau đó bị lật đổ. Trung Hoa lại rơi và nội chiến giữa nhiều lực lượng quân phiệt khác nhau. Tuy Trung Hoa Dân Quốc được thành lập nhưng không bao giờ có một chính quyền trung ương vững mạnh. Sau đó Ðảng Cộng Sản Trung Quốc chiến thắng tại Hoa Lục năm 1949 và Trung Hoa Quốc Dân Ðảng rút ra cố thủ tại Ðài Loan.

Tôn Dật Tiên học hỏi được nhiều từ nền dân chủ Hoa Kỳ và áp dụng vào chủ thuyết Tam Dân của ông. Thuyết dân tộc một phần phản ảnh thực tế đa chủng tộc và đa văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Tinh thần bình đẳng trong dị biệt là một điều kiện tất yếu trong một nước dân chủ. Thuyết dân quyền của ông là sự khai triển của quan điểm dân quyền (civil rights) tây phương và quan điểm tam quyền phân lập của Montesquieu. Ông có thêm vào hai quyền nữa là quyền giám sát và khảo thí, nhưng trên nguyên tắc quan điểm phân quyền để giảm thiểu sự tập trung quyền lực vào một cá nhân hoặc cơ chế vẫn không thay đổi.

Thuyết dân sinh của ông có nhiều ưu điểm nhất. Ông sinh trưởng tại Hạ Uy Di, Hoa Kỳ nhưng không bị cám dỗ bỡi những khuynh hướng tư bản. Ông cũng không đồng ý với quan điểm Mác Xít cực đoan. Quan điểm của ông trung dung. Ông chủ trương bảo vệ tư hữu, nhưng giảm thiểu những cực đoan của tư bản vô kiểm soát. Thêm vào đó, những chủ trương của ông không hề ngăn cản hoặc xen lấn vào nền văn hóa ngàn đời của người Trung Hoa. Ông giúp họ tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn nhưng không buộc họ phải hủy diệt quá khứ của họ. Viễn kiến của ông được mọi người Trung Hoa công nhân và tôn sùng cho đến hôm nay.

Cuộc cách mạng Nga 1917:

Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặc chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong.

Nga Hoàng đã bị lật đổ tháng hai năm đó và một chính phủ lâm thời đã được thành lập dưới quyền của Thủ Tướng Kerensky. Kerensky là một người chủ trương thành lập một thể chế dân chủ theo chiều hướng tây phương.

Lê Nin là một trong những người ngưỡng mộ Robespierre như một thần tượng.

Trong khi Robespierre cướp lấy quyền lực chính trị, trong một giai đoạn, từ những phe nhóm ôn hòa của cuộc cách mạng Pháp, thì Lê Nin cướp quyền lực vĩnh viễn từ phe ôn hòa do Alexander Kerensky lãnh đạo, trong cuộc cách mạng Nga. Cuộc cách mạng Bolshevik xảy ra vào tháng 10, 1917.

Sai lầm chính trị của Kerensky là chủ trương chống lại cuộc xâm lăng của nước Ðức và tuyển mộ quân đội gởi ra tiền tuyến. Ðây là một hành động yêu nước nhưng thiếu sáng suốt vì vào thời điểm đó, dân chúng thiếu ăn và chán ngán chiến tranh. Lê Nin và đảng Bolshevik (không còn là một nhóm nữa mà đã tách ra khỏi nhóm Menshevik để thành lập một đảng riêng) trái lại chủ trương phản chiến. Ðiều này phù hợp lòng dân, và chính phủ Ðức viện trợ cho nhóm Bolshevik tài chánh dồi dào, mong sao cho Lê Nin nắm được chính quyền để Ðức dễ chiếm cứ một phần đất phì nhiêu của Nga Sô.

Chính nhờ những yếu tố này mà phe Bolshevik cướp được chính quyền vào tháng 10, 1917. Biến cố này được các sử gia Cộng Sản nâng cấp thành “cuộc cách mạng tháng 10 vĩ đại”.

Trên thực chất cách mạng lật đổ Nga Hoàng đã xẩy ra tháng 2 trước đó. Tháng 10 chỉ đánh dấu sự chuyển nhượng quyền lực từ nhóm Kerensky qua tay nhóm Lê Nin.

Sau khi nắm được chính quyền Lê Nin lập tức thi hành các chính sách Cộng Sản tiêu biểu như sau:

a. “Tiêu diệt mọi thành phần và đảng phái/ phe nhóm đối lập (đặc biệt là đảng Cách Mạng Xã Hội và Menshevik).

b. Tháng 12 năm 1917 thành lập cơ quan mật vụ Cheka (vốn là tiền thân của KGB) để thanh toán và thủ tiêu tất cả mọi đối lập trong và ngoài đảng.

c. Quốc hữu hóa tất cả mọi ngân hàng.

d. Trao các hãng xưởng cho các soviets quản trị.

e. Các tài khoản tư nhân trong các ngân hàng bị tịch thu.

f. Tài sản và ngân khoản của giáo hội Chính Thống Giáo bị tịch thu.

g. Tăng lương và giảm giờ làm việc cho nhân công thành 8 giờ một ngày.

h. Chối bỏ tất cả các món nợ với các quốc gia khác”. (Xem Wikipedia: October Revolution)

Cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 tuy thành công trên phương diện cướp chính quyền cho nhóm Bolshevik, nhưng lại là một cuộc cách mạng thiếu viễn kiến và gây nhiều tác hại cho dân tộc Nga, lẫn những dân tộc bị các chế độ Cộng Sản tiếp theo cai trị vì các yếu tố như sau:

a. Tính cách đoạn tuyệt quá khứ quá mạnh của nó hủy hoại nền văn hóa truyền thống dân tộc Nga trong khi thiên đường Cộng Sản chỉ là một viễn tượng xa vời chưa có.

b. Tính bạo động và đổ máu của nó, dưới sự lãnh đạo của Lê Nin và sau đó Stalin còn vượt xa mức độ của thần tượng của họ là Robespierre nữa. Nếu kể cả Stalin thì đảng CS Liên Xô đã giết khoảng trên 30 triệu người. Một sự lạm sát như thế tiêu diệt nguyên khí của dân tộc Nga và dân tộc này sẽ mất nhiều kỷ nguyên mới khôi phục được.

c. Cuộc cách mạng tháng 10 của người Bolshevik hoàn toàn không có khả năng khống chế các thành phần quá khích và giáo điều. Hơn ai hết, lãnh tụ của họ Lê Nin là một thành phần quá khích. Mặc dù vào những năm cuối cùng của mình, Lê Nin đã nhìn thấy một phần những khuyết điểm và muốn sửa đổi. Tuy nhiên sức khỏe của ông đã suy giảm và những quy luật mà ông đưa ra, như quan điểm dân chủ tập trung, đã bị Stalin lợi dụng triệt để để khống chế mọi thành phần đối lập trong lẫn ngoài đảng. Lê Nin chết sớm và Stalin lên ngôi.

d. Ðảng Cộng Sản Liên Xô là tiêu biểu tuyệt vời cho hiện tượng thể chế hóa phương tiện. Lý do là vì trên nguyên tắc, theo lý thuyết Mác Xít, đảng CS chỉ là một phương tiện để xây dựng xã hội chủ nghĩa hoặc thiên đường cộng sản. Một khi thiên đường đạt được thì phương tiện sẽ triệt tiêu. Tuy nhiên đảng như là một phương tiện, vì nắm mọi quyền lực và quyền lợi trong tay, nên chuyển mình thành một định chế vĩnh viễn trường tồn, nắm sinh mệnh không những của từng đảng viên mà của nguyên dân tộc trong bàn tay sắt của mình. Dĩ nhiên bao lâu mà thiên đường chưa đến thì không có lý do để triệt tiêu và thiên đường càng viễn vông thì quyền lực càng trường tồn. Như là một quy luật, một phương tiện chuyển mình trở thành định chế.

Ðảng CS Liên Xô trở thành một con khủng long cấu xé không những các đảng viên nội bộ mà còn ăn tươi nuốt sống toàn dân tộc Nga. Các đảng CS Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn đều là những tai họa tương tự cho dân tộc họ vì tính thiếu viễn kiến của cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917.

Cuộc cách mạng Hồi Giáo năm 1979 tại Iran:

Nếu chúng ta định nghĩa cách mạng là sự thay thế một trật tự xã hội này, bằng một trật tự xã hội khác với một quan điểm chỉ đạo trái ngược, thì công cuộc lật đổ Vương Triều Mohammad Reza Pahlavi năm 1979, dưới sự lãnh đạo của Giáo Sĩ Hồi Giáo Khomeni, để thành lập nên nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran, là một cuộc cách mạng đúng nghĩa.

Dân tộc Iran vốn là một dân tộc theo tín ngưỡng Hồi Giáo. Tuy nhiên vương triều Pahlavi đã mất lòng dân vì những yếu tố sau đây:

1. Nhà vua có khuynh hướng chuyên chế và mất lòng giới trí thức cấp tiến muốn dân chủ hóa đất nước.

2. Vương triều muốn giới hạn quyền lợi cũng như ảnh hưởng của giáo hội Hồi Giáo và làm giới giáo sĩ bất mãn.

3. Vương triều muốn từ từ thay thế luật truyền thống Hồi Giáo bằng luật lệ Tây Phương, kể cả nam nữ bình quyền, lẫn cấm không cho phụ nữ đội khăn che đầu truyền thống. Ðiều này làm dân chúng phẫn nộ.

4. Nhà vua còn tỏ ra lệ thuộc vào Hoa Kỳ và Anh Quốc quá mức. Các quốc gia này bị dân chúng coi là những kẻ thù của Hồi Giáo.

5. Vương triều sử dụng tối đa quân đội và công an để đàn áp dân chúng. Tuy nhiên các lực lượng chống đối liên kết. Cuối cùng nhà vua phải bỏ nước lưu vong.

Giáo Sĩ Khomeni trở về Iran từ Pháp và được hằng triệu người đón tiếp tại phi trường.

Quan điểm chỉ đạo của cuộc cách mạng này gồm các yếu tố sau đây:

a. Luật Hồi Giáo là tối thượng và giáo quyền (theocracy) phủ quyết thế quyền (the state).

b. Công bằng xã hội.

c. Chống lại những “khuynh hướng đế quốc” của các nướcTây Phương, nhất là Hoa Kỳ và Anh Quốc. Cuộc chiến ngày hôm nay, đối với họ, là sự tiếp nối tự nhiên của các cuộc thánh chiến giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ.

d. Chống lại văn hóa Tây Phương.

e. Cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran chỉ là khởi điểm, cuộc cách mạng phải lan tràn trên tất cả các quốc gia Hồi Giáo khác, các nước Tây Phương và cuối cùng phải chinh phục toàn thế giới bằng ý thức hệ Hồi Giáo.

Ðể thực thi ý thức hệ trên tại Iran, hiến pháp nước này được viết lại và mọi quyền lực và cơ chế chính trị đều bị sự kiểm soát và chỉ đạo của một Hội Ðồng Giáo Sĩ (Council of Guardians). Hội đồng này kiểm soát bầu cử và các sắc luật của lập pháp. Chủ tọa của Hội Ðồng là một lãnh tụ Hồi Giáo tối cao (Supreme Leader) điều khiển và kiểm soát quân đội và công an, cũng như bổ nhiệm các chức vụ cao cấp của chính quyền và trong ngành tư pháp. Vị lãnh tụ tối cao đầu tiên là Ayatolla Khomeni. Vị lãnh tụ tối cao hiện giờ là Ayatolla Ali Khamenei.

Nếu chúng ta đánh giá mức độ viễn kiến hoặc thiếu viễn kiến của cuộc cách mạng này thì chúng ta có những nhận xét như sau:

1. Những quan điểm hướng về tương lai của Khomeni là một xã hội lý tưởng sống bằng lời dạy của Thượng Ðế qua kinh Koran. Tuy nhiên, trên thực chất đây là một xã hội trong đó giới Giáo Sĩ thống trị thường dân, Giáo Hội thống trị cả chính quyền lẫn xã hội dân sự, và đàn ông thống trị nữ giới, tạo nhiều bất công.

2. Dĩ nhiên cuộc cách mạng này không có tính đoạn tuyệt quá khứ. Ngược lại không những nó tiếp nối quá khứ mà còn đi ngược lại thời gian, phủ nhận những tiến bộ bình thường của nền văn hóa Iran. Bằng tác động đi ngược lại dòng thời gian, nó muốn kéo dân tộc Iran trở về thời Trung Cổ khi Ðấng Tiên Tri Mohammad mới quật khởi, khai đạo và vung gươm chinh phục các bộ lạc trong bán đảo Saudi Arabia bây giờ. Kéo một dân tộc đi ngược lại hơn một ngàn năm là một tác động gây nhiều tang tóc.

3. Chính vì chủ trương phản tiến hóa như thế mà cuộc cách mạng tại Iran được coi là nguồn gốc của quan điểm Hồi Giáo cực đoan (fundamentalist Islam) cùng với Ossama Bin Laden lẫn nhiều phe nhóm cực đoan khác. Chính quyền Iran còn âm thầm tài trợ cho nhiều phe nhóm khủng bố, nhằm lật đổ các chính quyền tại các quốc gia Hồi Giáo mà họ cho là thối nát, phản đạo và làm tay sai cho tây phương (Hồi Quốc, Saudi Arabia, Jordan, Ai Cập …)

4. Những thành phần quá khích không những không bị khống chế mà còn dược ủng hộ và đưa vào những chức vụ lãnh đạo trong chính quyền. Ðương kim Tổng Thống Iran Ahmadinejad là một ví dụ điển hình.

5. Giáo Hội hiện giờ đang nắm quyền tuyệt đối, khống chế chính quyền lẫn xã hội dân sự. Qua tiến trình thể chế hóa phương tiện, giáo hội trở thành một định chế đầy quyền sinh sát trong tay và một thứ siêu quyền lực. Các nhà lãnh đạo quyết tâm nắm giữ quyền hành để thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ, tương tự các đảng cộng sản trên thế giới.

Cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran là một tai họa lớn lao cho dân tộc này, và gieo mầm hiểm họa cho nền hòa bình của thế giới. Nhất là nếu Iran hoặc những phe nhóm khủng bố Hồi Giáo chế , ráp, đánh cắp hoặc mua được vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học hoặc tương tự.

Ðánh giá các cuộc cách mạng:

Sau khi duyệt xét các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, chúng ta có thể phân ra hai loại: Những cuộc cách mạng đem lại dân chủ và những cuộc cách mạng xây dựng độc tài.

Các cuộc cách mạng đem lại dân chủ bao gồm: Magna Carta tại Anh Quốc năm 1215, Cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp 1789 và cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung Quốc 1911.

Các cuộc cách mạng đem lại độc tài bao gồm: Cuộc cách mạng Bolshevik 1917 và cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran năm 1979.

Hầu như những cuộc cách mạng dân chủ hóa luôn luôn đem lại, không những tiến bộ vượt bực về kinh tế cho các quốc gia sở tại, mà trên phương diện nhân quyền lẫn dân quyền, đều vượt trội so với các dân tộc phải trầm luân trong các cuộc cách mạng độc tài. Bằng cớ hiển nhiên là Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp và Ðài Loan vượt trội Nga Sô, các quốc gia Ðông Âu và Trung Cộng.

Các cuộc cách mạng tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp và Tân Hợi có nhiều khuyết điểm và nhiều khi bất thành. Nhưng viễn kiến của những người lãnh đạo biến lý tưởng của họ thành những ngọn đuốc soi đường cho các thế hệ mai sau. Hậu duệ của họ cuối cùng đã xây dựng được những xã hội phồn vinh, dân chủ và tươi sáng. Lý tưởng đấu tranh của họ hoàn toàn không có khuynh hướng ý thức hệ giáo điều. Những đảng phái phe nhóm của họ thành lập không trở thành những định chế cứng nhắc đầy quyền lực, siêu chính quyền, để khống chế nhà nước lẫn xã hội dân sự như các đảng Cộng Sản hoặc hội đồng giáo sĩ Hồi Giáo Iran.

Cuộc cách mạng Bolshevik 1917 và cuộc cách mạng Hồi Giáo Iran 1979 rõ ràng là những cuộc cách mạng thiếu viễn kiến. Các cuộc cướp chính quyền của các đảng Cộng Sản khác nhau tại Trung Hoa lục địa, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba đều cùng chia sẻ những khuyết điểm đã thảo luận trên.

Mặc dầu Lê Nin là một trong những người ngưỡng mộ Robespierre, và ở một mức độ nào đó, đã “noi gương” Robespierre một cách xuất sắc trong chủ trương đổ máu của mình. Tuy nhiên có một sai biệt căn bản giữa cuộc cách mạng Pháp 1789 và cuộc cách mạng Bolshevik 1917. Ðó là cuộc cách mạng Pháp không nhằm đến mục tiêu hủy diệt giáo hội Công Giáo, hoặc hủy diệt tôn giáo nói chung, như Lê Nin. Tính viễn kiến của cuộc cách mạng Pháp nằm ớ chỗ giới hạn quyền lực của giáo hội và vạch một lằn ranh rõ rệt giữa giáo quyền và thế quyền, giúp cho sự phát triển dân chủ và ý niệm chủ quyền quốc gia được hưng thịnh. Biên giới giữa giáo quyền và thế quyền giúp cho nước Pháp và các nước Tây Âu, vào thời điểm đó, song hành hai công tác thiết yếu: Nối tiếp truyền thống văn hóa Thiên Chúa Giáo và xây dựng dân chủ chân chính.

Sai lầm lớn lao nhất của các ông Mao Trạch Ðông, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh là áp dụng giải pháp Mác Lê cho Việt Nam. Giải pháp này tự nó đã thiếu viễn kiến và tàn phá một nước Thiên Chúa Giáo ( hệ phái Chính Thống Giáo) như Nga Sô một cách thảm thương, vì tính đoạn tuyệt quá khứ và giáo điều của nó. Khi áp dụng miễn cưỡng vào các quốc gia Ðông Á, với một nền văn hóa hòan toàn khác biệt là Tam Giáo (Phật Lão Khổng) thì tính tha hóa và sự tàn phá còn tệ hại hơn nữa.

Trước hết các tôn giáo Ðông Á như Phật Giáo, Lão Giáo và ngay cả Không Giáo không có tính giáo quyền. Không có một tôn giáo nào có một hệ thống và định chế quyền lực như có một vị giáo chủ toàn năng sai khiến giáo dân và can thiệp vào thế quyền cả.

Nếu có thế quyền thì chỉ có giai cấp Nho Gia sĩ phu đứng ra giúp triều đình gánh vác chuyện nước non. Tuy nhiên các sĩ phu cũng không có một giáo chủ sai khiến họ.

Dĩ nhiên xã hội truyền thống có rất nhiều bất công. Nhưng tính cứng nhắc của nó không bằng xã hội Pháp trước khi cuộc cách mạng Pháp xảy ra. Tại Ðông Á, sự vận hành xuyên giai cấp tuy khó khăn nhưng thường xuyên xảy ra. Một thư sinh nghèo nếu học giỏi vẫn được bổ nhiệm làm quan lớn. Vua Quang Trung xuất phát từ giai cấp nông dân.

Giai cấp xã hội Tây Phương lúc đó trái lại được phân làm 3 loại rõ rệt. Giai cấp thứ nhất là Giáo Hội Công Giáo, giai cấp thứ nhì là quý tộc và giai cấp thứ ba là thứ dân. Vương triều đứng ngoài và trên các giai cấp. Tuyệt đối không có sự vận hành xuyên giai cấp giữa vương triều, quý tộc và thứ dân. Các giai cấp đều là cha truyền con nối. Chỉ có sự vận hành xuyên giai cấp trong giáo hội mà thôi, vì hàng ngũ giáo hội không phân biệt giai cấp. Sự xung đột giữa giáo quyền và thế quyền tại Tây Phương, sau đó đưa đến sự phân chia ranh giới giữa giáo quyền và thế quyền, tuy giảm đi quyền lực của giáo hội, nhưng lại giúp cho giáo hội loại bỏ những tính tiêu cực và nuôi dưỡng những tính tích cực, hầu tiếp tục đóng góp như là cột trụ của nền văn hóa Tây Âu.

Chính vì thế khi nói đến giáo hội Công Giáo La Mã ngày hôm nay, chúng ta thường nghe nhắc tới các yếu tính như: Thể hiện lòng bác ái qua các công tác từ thiện và giáo dục, bênh vực cho giới nghèo khổ qua quan điểm công bằng xã hội, và cổ võ cho hòa bình thế giới qua uy tín của giáo hội.

Tại Ðông Á, nền văn hóa truyền thống hàm chứa nhiều ưu điểm có thể đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa và củng cố cho ý niệm dân chủ đó. Ưu điểm lớn vì ngoài ba yếu tính tích cực tương tự như của giáo hội La Mã, nền văn hóa Tam Giáo còn bao hàm tính phi ý thức hệ cực mạnh và hoàn toàn phủ nhận tiến trình thể chế hóa phương tiện.

Chính vì thế, tuy thời điểm cách mạng dân chủ đến trễ với nền văn hóa Ðông Á qua cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Dật Tiên (vì bản chất ôn hòa và trung dung của Tam Giáo) nhưng tính tích cực của nền văn hóa truyền thống sẽ dễ dàng thăng hoa cho quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên ngày hôm nay.

Dĩ nhiên những cuộc cách mạng dân chủ không phải hoàn toàn không khuyết điểm. Vấn đề là các cuộc cách mạng này không nặng giáo điều và những khuyết điểm có cơ hội được tu chính, mặc dù sự tu chính có thể gặp nhiều khó khăn.

Khi chúng ta xét đến trường hợp của Hoa Kỳ, công trình giải phóng nô lệ của Tổng Thống Lincoln cũng không làm cho xã hội Hoa Kỳ hoàn hảo được. Hoa kỳ có thể được gọi là một xã hội do một đa số trung lưu cai trị một thiểu số người nghèo. Ðại đa số người nghèo thất nghiệp và không có bảo hiểm sức khỏe. Nếu tân Tổng Thống Barack Obama thành công trong việc cải tổ nền y tế Hoa Kỳ và đem lại bảo hiểm sức khỏe cho 15% người dân Hoa Kỳ không có bảo hiểm, thì đây sẽ là một bước đi dài trên con đường đều chỉnh những khuyết điểm lớn lao của cuộc cách mạng Hoa Kỳ 1776.

Mặc dầu chúng ta không thể đánh giá thấp cuộc cách mạng Hoa Kỳ, nhưng chúng ta có quyền đặc câu hỏi giả định rằng: Nếu cuộc cách mạng lừng danh này không xảy ra thì số phận của dân Hoa Kỳ sẽ ra sao? Một trong những câu trả lời mà tôi cảm thấy đương nhiên là: Dân Hoa Kỳ sẽ tương tự như dân Gia Nã Ðại hoặc dân Úc Ðại Lợi. Chúng ta có thể tranh cãi về những quyền tự do tương đối giữa dân Hoa Kỳ và dân Gia Nã Ðại hoặc Úc Ðại Lợi. Tuy nhiên có một điều chúng ta có thể khẳng định là tại Gia Nã Ðại và Úc, dù đi làm hay thất nghiệp, mọi người đều không cần lo lắng về bảo hiểm sức khỏe. Cần nói thêm rằng, Úc và Gia Nã Ðại không phải là những quốc gia hiếm hoi trên phương diện bảo hiểm sức khỏe cho toàn dân, mà hầu hết các quốc gia tiền tiến đều có hệ thống bảo hiểm sức khỏe tương tự, hiệu năng hơn, công bằng hơn và ít tốn kém hơn Hoa Kỳ.

Ðại họa của dân tộc Việt Nam là ông Hồ Chí Minh là một chính trị gia lão luyện nhưng hoàn toàn không có viễn kiến. Ông đã đưa dân tộc vào những tuyệt lộ. Những bước đi, đôi khi ngoạn mục của ông và những đồ đệ, chỉ là những hào nhoáng có tính giai đoạn. Kết quả thực sự họ đem lại cho dân tộc là sự nghèo khổ, tụt hậu so với các dân tộc cùng khu vực và cùng nền tảng văn hóa, sự mất đất, mất vùng biển tổ tiên chúng ta đã tranh đấu nhiều thế kỷ để bảo tồn và sự giãm sút tổng năng lượng trí tuệ của toàn dân tộc.

Nhìn lại vị trí khiêm nhượng của đất nướcViệt Nam của chúng ta trong bối cảnh toàn cầu, chúng ta mới thấy sự nguy hại của tính thiếu viễn kiến. Ngày 26 tháng 9, 2009 vừa qua, tin tức cho thấy khối kinh tế G20 sẽ thay thế cho khối G8 giữ vai trò quyết định về trật tự kinh tế thế giới từ đây.

Toàn dân Việt Nam, từ chính quyền đến thứ dân, từ trí thức đến lao động đều mặc nhiên chấp nhận Việt Nam không thuộc vào khối này và chấp nhận vị trí của mình như một nước nhược tiểu.

Nếu không có cuộc cách mạng Bolshevik 1917, nếu đảng CSTQ không chiến thắng tại Trung Hoa năm 1949, nếu CSVN không nhờ vào Trung Cộng và chiến thắng tại Ðiện Biên Phủ 1954 và chinh phục Nam Việt Nam 1975, thì ngày hôm nay, cũng như Nam Hàn, dân tộc Việt Nam với hơn 80 triệu người và khối óc thông minh, cần mẫn đã hãnh diện đứng vào hàng ngũ của những quốc gia trong khối G20.

Trong những danh nhân tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ, các Nhà Cách Mạng Lý Ðông A, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Tường Tam, mặc dù không mưu mô quyền biến, lão luyện giang hồ bằng ông Hồ Chí Minh, nhưng họ vẫn nhiều viễn kiến hơn ông Hồ, vì một mặt họ chủ trương dân chủ hóa đất nước , nhưng mặt khác họ vẫn chủ trương tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc.

Nếu không có ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN thì ngày hôm nay, chúng ta không những đã có độc lập mà chúng ta còn có một đất nước tân tiến, một nền kinh tế hùng mạnh, sánh vai cùng Nam Hàn trong khối G20, một nền dân chủ đa nguyên đa đảng và ngang nhiên đối đầu với Trung Quốc trên các sự tranh chấp lãnh địa và lãnh hải.

Không có chủ trương chính trị nào thiếu viễn kiến bằng chủ trương đoạn tuyệt với nền văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Không có tư tưởng chính trị nào thiếu viễn kiến bằng những giáo điều cứng nhắc làm mồi ngon cho tiến trình thể chế hóa phương tiện để xây dựng những đảng phái và định chế độc tài tàn phá nguyên khí của dân tộc.

Trừ phi trong sự nghèo khổ cùng cực phải mất đi cả nhân tính, mỗi con người, mỗi dân tộc, không phải chỉ có nhu cầu vật chất, cũng không chỉ đơn thuần là một cái chốt vô tri trong một bộ máy, cũng không phải đơn thuần là những đơn vị sản xuất trong một guồng máy sản xuất phi nhân tính. Sự thiếu viễn kiến của Mác là động lực để các đảng CS khác nhau chủ trương bần cùng hóa những con người và dân tộc trong một cố gắng vô vọng để vật chất hóa con người.

Quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên của các nền dân chủ hiện đại là một quan điểm mở (open) và mang tính năng động (dynamic).

Chính vì các lý do trên, muốn phục hưng đất nước và đem lại cho Việt Nam chiều cao thực sự của dân tộc, chúng ta phải song hành chủ trương phục hưng văn hóa dân tộc và xây dựng dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên.

Ðiều cần phải nhấn mạnh nơi đây là khi chủ trương đa nguyên là chúng ta phải chủ trương đa nguyên tuyệt đối, không phải chủ trương đa nguyên bề mặt để làm bình phong cho một chế độ lưỡng đảng như Hoa Kỳ. Những phe nhóm quyền lực có thể khống chế một chính đảng trong một chế độ độc đảng dễ dàng để kéo dài đau thương cho cả dân tộc. Những phe nhóm quyền lực cũng có thể khống chế cả hai chính đảng để khống chế toàn bộ xã hội và làm chậm trễ những tiến trình cải tổ xã hội như tại Hoa Kỳ.

Tuy nhiên nếu chúng ta có một môi trường đa nguyên thực sự, thì số đảng phái nhiều hơn và các nhóm quyền lực sẽ không bao giờ khống chế toàn diện được. Nhất là khi nguyên tắc đa nguyên được củng cố bởi việc hiến định hóa thể thức bầu cử chọn đại diện theo tỷ lệ (proportional representation) và trách nhiêm bầu cử cưỡng bách (compulsory voting).

Như đã trình bày trong bài “Những khuyết điểm của nền dân chủ Hoa Kỳ”, bầu cử đại diện theo tỷ lệ phải nhạy bén tối đa với tỷ lệ cử tri. Một chính đảng có 5% dân bầu phải có 5% đại diện trong quốc hội. Mọi người dân phải có trách nhiệm đi bầu. Nếu không đi bầu sẽ bị chế tài. Ðiều này sẽ làm cho những dân nghèo cũng đi bầu như những người khá giả. Về lâu về dài, tiếng nói của người nghèo sẽ được lắng nghe nhiều hơn, giảm thiểu sự bất công xã hội trong các chính sách quốc gia.

Với tính nhạy bén của từng lá phiếu nâng cao và với tính đa nguyên tuyệt đối của môi trường chính trị ngày càng vững mạnh, sẽ không có tình trạng các phe nhóm quyền lực khống chế toàn bộ chính trường, tạo ra những bất công bất trị.

Muốn như thế, người dấn thân đi làm cách mạng phải có viễn kiến.

Sydney 26 tháng 9, 2009

Luật Sư Ðào Tăng Dực

vendredi 25 septembre 2009

Khi chất phế thải tan rữa

Thursday, September 24, 2009
Ngô Nhân Dụng

Như quý vị biết, chưa bắt đầu mùa Thu mà đã có nhiều nơi ở California đã xẩy ra nhiều trận cháy rừng, sở cứu hỏa phải lo vấn đề đó, cho nên mới có một bản tin trên báo L.A. Times. Ðọc bản tin này, tôi chợt nghĩ tới di hài của ông Hồ Chí Minh. Chỉ nghĩ thoáng qua thôi, vì nói đúng ra, tôi nghĩ tới tình trạng của đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay nhiều hơn.

Bản tin nói rằng khi những chất phế thải (thí dụ như phân) của loài vật tàn rữa thì nó sinh ra tình trạng rất bất ổn, bấp bênh (volatile). Phân và xác súc vật tan rữa phát sinh ra các loại khí, trong đó có khí mê tan (methane) có thể tích tụ lại ở những nơi không được gió thổi tới. Khi trời nóng quá loại khí bất ổn đó rất dễ bốc cháy và phát nổ, có thể gây ra nạn cháy rừng.

Nhưng khi đọc tin trên thì, tự nhiên không tránh được, tôi nhớ mới đọc bản tin nào đó mới nói cái di hài ông Hồ Chí Minh gần đây được các chuyên gia người Nga đem ra xét nghiệm lại vì sợ nó bị rữa nát nếu không được bảo trì đầy đủ. Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoáng qua thôi; cái di hài của một người đã chết từ lâu không còn quan trọng nữa, điều đáng suy nghĩ hơn là tình trạng cái di sản mà Hồ Chí Minh còn để lại, là đảng Cộng Sản đang cai trị nước Việt Nam.

Gần đây cái đảng cầm quyền này có nhiều hành động rất lạ lùng. Họ nói năng cũng tỏ ra lúng túng, không còn giảo hoạt như những anh quản giáo lên lớp hồi xưa nữa. Họ giống như những người tâm thần bất định vậy. Làm sao mà cái mạng lưới chính thức của đảng “lãnh đạo nhà nước và xã hội” Việt Nam (theo điều 4 trong Hiến Pháp) mà lại hớ hênh viết những lời công nhận Hoàng Sa là lãnh thổ Trung Quốc, để cho tất cả những người Việt Nam biết chữ đều phải bất bình? Một người tỉnh táo thì nếu trong bụng có nghĩ như thế nhưng ngoài miệng cũng phải giả bộ nói cách khác để khỏi chọc tức, chọc giận các người Việt Nam còn yêu nước chứ? Ðây là một hiện tượng lạ. Người ta vẫn nói “Nói dối như Vẹm!” Bao nhiêu mánh khóe tuyên truyền do “Bác” dậy, họ quên hết rồi hay sao? Các cụ nói, “Hết khôn dồn ra dại” là như thế này chăng?

Một hành động có vẻ tâm thần bất định nữa là việc bắt bớ những người làm mạng lưới phê bình các chính sách của đảng đối với Trung Quốc trong những vụ Hoàng Sa hoặc Bô Xít. Cả thế giới bỗng nhiên biết tên những ông Ðiếu Cầy, Người Buôn Gió, cô Mẹ Nấm, vân vân. Làm gì mà phải cuống quít lên như vậy? Hàng trăm triệu người khắp thế giới người ta làm mạng, người ta vào mạng, vì nhu cầu tự nhiên và kỹ thuật sẵn sàng ở đó ai dùng cũng được. Làm sao mà bịt miệng được cái mạng lưới tin học đang như gió nổi lên khắp bốn phương trời này? Kế đến lại cái quyết định số 97 chi đó, bắt buộc các tổ chức nghiên cứu khoa học không được công bố các công trình của họ trước khi trình lên các cơ quan nhà nước! Ðúng là một quyết định tối dạ, ngu dốt, “phản khoa học, phản tiến bộ và phản dân chủ” như ông Tiến Sĩ Nguyễn Quang A nhận xét không oan chút nào. Những người tỉnh táo không làm như vậy, nhất là họ có thể làm cách khác đạt cùng một mục đích. Vì quyết định 97 này mà ai cũng phải công nhận là ông Nguyễn Tấn Dũng tính bịt miệng cả nước. Nhưng làm sao bịt được miệng cái mạng lưới toàn cầu?

Không phải chỉ những người lãnh đạo chóp bu trong đảng Cộng Sản mới luẩn quẩn. Cả những đảng viên về hưu còn rất nhiều thiện ý muốn giúp đảng tìm đường cho tai qua nạn khỏi cũng nghĩ quẩn lo quanh nữa. Ông Tống Văn Công, cựu tổng biên tập báo Lao Ðộng, đã viết một bức thư tha thiết kêu gọi đảng của ông thay đổi mạnh hơn nữa. Bức thư rất nhiệt thành, rất sắc bén, trừ một vài chỗ lẫn cẫn. Những lời ông phê bình đảng của ông đều rất đúng, ai cũng thấy như vậy cả. Nhưng các đề nghị của ông để “xây dựng đảng” thì nó không đâu vào đâu cả.

Thí dụ, cái tội lỗi lớn nhất gây ra tai họa cho nước Việt Nam là thể chế chính trị độc tài, ông Tống Văn Công cũng biết vậy. Nhưng ông không dám yêu cầu bỏ cái điều số 4 trong Hiến Pháp là căn bản của chế độ độc tài độc hại đó. Ông chỉ khép nép xin “luật hóa” điều 4 này. Nhưng bao nhiêu thứ luật mà đảng Cộng Sản đã đặt ra, từ Luật Cải Cách Ruộng Ðất do ông Hồ làm theo ý kiến các cố vấn Trung Quốc, làm xong rồi lại long trọng thông báo với đồng chí Stalin, cho tới Luật Báo chí của ông Nguyễn Tấn Dũng, đến quyết định số 97 gần đây, tất cả là những công trình biến quy tắc “chuyên chính” thành ra luật cả. Chưa đủ sao mà bây giờ còn “luật hóa” thêm cái gì nữa?

Bức thư của ông Tống Văn Công chứa rất nhiều tâm tư đáng kính trọng, tuy nhiên cách suy nghĩ vẫn là “lẫn,” như khi chúng ta nói các cụ già lẫm cẫm. Ông vẫn lập lại cái ý của nhiều đảng viên già: “Nếu như Bác còn sống.” Ý nói, nếu còn sống thế nào “Bác” là con người khôn ngoan sáng suốt cũng thi hành những đề nghị đổi mới mạnh bạo của ông. Nhưng cũng trong bức tâm thư đó, ông viết về những sai lầm của đảng Cộng Sản, có câu: “Tuy nhiên, vào đầu những năm 50 trở đi đã nảy mầm tai họa:

- Nhầm đồng minh giai đoạn là đồng minh chiến lược, trong khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Ðại Hán.

- Ðường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản.”

Thế thì vào những năm 1950, 51 “Bác” của ông còn sống nhăn, còn đầy đủ sức khỏe và đóng vai trò quyết định, thì ai là kẻ gây ra những mầm tai họa này? Lúc đó “Bác” chỉ cần phán một câu, “Ðồng chí Stalin nói như vậy” là tất cả tất cả các cán bộ đảng viên phải im thin thít (ông Nguyễn Văn Trấn là một nhân chứng)! Thế thì ai là người làm cho “Ðường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản,” mà lại là thứ cộng sản kiểu Mao? Kẻ nào đã phạm lỗi “nhầm đồng minh giai đoạn là đồng minh chiến lược,” đưa hình ông Mao ông Xít (sau đổi thành ông Ma lăng cốp) lên bàn thờ bắt cả nước tôn sùng, thờ cao hơn hình ông bà ông vải? Ai là người lú lẫn không biết điều mà ông Tống Văn Công cho là ai cũng phải biết: “à trong khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Ðại Hán?”

Thế thì “Bác” khôn ngoan sáng suốt hay là “Bác” cũng lú từ lâu rồi?

Ông Tống Văn Công còn đưa ra một giải pháp lạ lùng là chia đảng Cộng Sản thành hai đảng. Dân chúng Việt Nam sẽ được tự do bỏ phiếu chọn một trong hai đảng đó cho nắm quyền, còn đảng kia thua sẽ đóng vai đối lập. Tức là cái đảng hiện nay sẽ bầy ra trò bầu cử như chơi xóc đĩa, trong đó chẵn thì đảng cũng thắng, lẻ đảng cũng ăn! Nếu như thế thì tại sao không chia luôn ra làm ba đảng, bốn đảng cho nó có vẻ dân chủ hơn nữa? Ðọc những ý kiến như vậy thì chỉ muốn vỗ vai con người có Thiện Ý này, kêu lên: “Cụ lẫn rồi cụ ơi!”

Ngày xưa ông Nguyễn Khắc Viện đã thấy những tai hại mà đảng ông gây ra cho dân tộc, cho nên ông đã đề nghị đảng Cộng Sản trả lại quyền bầu chọn chính phủ cho dân Việt Nam, cho người khác cai trị, còn đảng của ông sẽ quay về lo việc đối lập, tranh đấu cho quyền lợi của dân. Ðề nghị của ông Nguyễn Khắc Viện rất không tưởng, nhưng cho thấy cái tâm lành của một nhà trí thức.

Có thể ông Tống Văn Công chủ trương chia đảng làm hai vì cũng “lẫn” như ông Nguyễn Minh Triết hồi ông sang Mỹ lần đầu. Hồi đó ông Triết bênh vực chế độ độc đảng ở Việt Nam, nói rằng mỗi nước có một tổ chức chính trị khác nhau. Ông còn hỏi tại sao nước Mỹ chọn chế độ “lưỡng đảng” chỉ có hai đảng thôi thì không bị ai chỉ trích hết? Ông Triết tưởng rằng luật lệ nước Mỹ chúng nó chỉ cho phép hai đảng chính trị hoạt động, còn thì cấm hết, không cho ai tranh giành với hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ! Trời đất ơi, dốt ơi là dốt! Ông không biết rằng mỗi lần bầu tổng thống ở Mỹ có hàng tá ứng cử viên, hàng chục đảng ra tranh giành! Hy vọng tháng tới này khi tới Mỹ gặp ông Obama ông Triết sẽ ít nói hơn, nếu không thì lại nhục cho cả nước Việt Nam lần nữa!

Nói chung, những suy nghĩ của một đảng viên lão thành như ông Tống Văn Công cũng luẩn quẩn như trong giới lãnh tụ đang cầm quyền. Chúng ta còn nhìn thấy tình trạng tinh thần hoảng loạn trong những tài liệu chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam về chủ trương đường lối của họ nữa. Tài liệu học tập các nghị quyết Hội Nghị Trung Ương 6, khóa 10, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia in năm 2008, trang 33 viết giải thích chủ trương kinh tế của đảng như thế này:

“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội” (trích lại từ bức thư của ông Tống Văn Công, ông dẫn ra để chỉ trích là nó sai lầm).

Ðọc câu đó xong, chắc ông Tống Văn Công không cười. Nhưng chúng ta đọc thì có thể chợt thấy hiện ra hình ảnh một người bệnh tâm thần đi ngoài đường, lẩm nhẩm nói một mình: “Con bò là con bò. Con heo là con heo. Con bò heo vừa là con bò cũng vừa là con heo. Con heo bò vừa tuân theo quy luật của con bò mà cũng vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật con heo! Mời quý khách xơi cho nó nóng!”

Ðó là sản phẩm của những đỉnh cao trí tuệ đang bị rữa từ bên trong, không còn tự làm chủ tâm thần mình nữa.

Khi những chất phế thải của loài thú tan rữa thì nó sinh ra các loại khí rất bất ổn, bất định. Có thể bốc cháy. Có thể nổ. Hình ảnh đó có gợi cho quý vị nghĩ tới tình trạng hiện nay của đảng Cộng Sản Việt Nam hay không?

jeudi 17 septembre 2009

40 năm di sản Hồ Chí Minh !

Ban Biên Tập TDNL (15.09.2009 số 83) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận

Tại Việt Nam đang có cái gọi là “Đợt tổng kết 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” và hai năm “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ” do Ban Tuyên giáo Trung ương đảng CS tổ chức. Để tung hứng, đồng thời để hoàn tất đơn đặt hàng của đảng trong chiến dịch này, nhiều “trí thức xã hội chủ nghĩa” đã ra sức vắt óc bóp trán, vận dụng lý luận, cố trình bày cho thấy “Di chúc Bác Hồ” đã là ngọn đuốc đưa đất nước đi từ thắng lợi quân sự, chính trị, ngoại giao đến thắng lợi xã hội, văn hóa lẫn kinh tế trong hơn 40 năm nay. Ông “tiến sĩ” Vũ Ngọc Am, trên trang mạng của Báo đảng CSVN ngày 09-09-2009, có viết bài “Di chúc Bác Hồ soi đường thắng lợi cuộc cách mạng VN” với 5 chủ điểm lấy từ nội dung di chúc này: 1. Hoàn tất cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ; 2. Chăm lo công tác xây dựng Đảng. 3- Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. 4. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 5- Xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế. Bất chấp thực tế hiện thời của đất nước với bao khủng hoảng, tụt hậu và hiểm họa, tác giả vẫn kết luận : “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 40 năm qua thực hiện Di chúc của Chủ tịch HCM, toàn Đảng, toàn dân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua bao khó khăn, thách thức giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Cùng với thời gian, chúng ta ngày càng nhận rõ Di chúc của Chủ tịch HCM là một tài sản vô cùng quý báu của Đảng và của nhân dân ta, là những chỉ dẫn và là nguồn cổ vũ hết sức to lớn để đất nước ta tiến lên giành thắng lợi thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để thoả lòng mong ước của Người”.

Ông “tiến sĩ” Tương Lai thì hơi khác. Qua loạt 4 bài đăng trên trang mạng Tuần Việt Nam từ 26 đến 29-08-2009, vị “giáo sư” này bàn đến 1- tư tưởng HCM; 2- tầm vóc HCM; 3- Phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng HCM; và 4- điều mong muốn cuối cùng HCM. Đáng chú ý hơn cả là bài thứ hai, “Tầm vóc HCM”. Dù biết tỏng lãnh tụ CS này, cán bộ Đệ tam Quốc tế này chẳng có tư tưởng nào, như chính ông ta khẳng định, chẳng có tác phẩm văn chương, triết học hay khoa học nào, ngoại trừ hai “tác phẩm tuyên truyền” lấy bí danh để tự biến thành thần tượng, còn lại là những diễn từ chính trị nhằm đẩy nhân dân miền Bắc vào cuộc chiến mở rộng Đế quốc CS, trong bài ấy, tác giả Tương Lai vẫn quyết trổ tài tán hươu tán vượn, nói lấy nói được, qua những câu đại loại : “Trước hết và sau cùng, HCM là một con người rất người, một người VN rất VN. Đúng là “dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HCM” theo đúng nghĩa sâu sắc, đậm đặc và nhất quán một nhân cách HCM, một đường nét văn hóa HCM rất VN. Những gì là lý luận, là khoa học, là uyên bác, là thâm thúy đều có trong HCM cả”, hoặc “Ở trong ứng xử cũng như trong cách viết, cách trả lời nhà báo nước ngoài, cách diễn đạt những mệnh đề, lý luận của HCM có sự tinh tế nhuần nhuyễn của những đường nét minh triết phương Đông và văn hóa phương Tây, vừa dân tộc vừa quốc tế… VN, Phương Đông, Phương Tây, thế giới, thời đại đều có trong cốt cách ứng xử của HCM”. Nhân tiện, Tương Lai chêm vào một câu nói ngây ngô, cường điệu lố bịch của Hélène Tourmaire, một nhà văn kiêm nhà báo Pháp: “Hình ảnh HCM đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”. Rồi thì là “HCM không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, cũng không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là thống soái” từng gây nên bao thảm họa. HCM càng không lệch về quân sự, để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng”, đấu tranh giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của người dân”. Thậm chí tác giả còn viết : “Đã có một số người vì những lý do nào đó không thể đi theo HCM, trong đó có người rất đau lòng, nuối tiếc vì hoàn cảnh bắt buộc… Cũng có thể nói, chỉ có ai đó đã bỏ HCM, chứ HCM thì không bỏ một ai. Ai đó tự loại trừ chính mình, chứ HCM không loại trừ ai. HCM vẫn thủy chung như nhất với khối đại đoàn kết dân tộc”.

Nhân gian thường nói : Xem quả biết cây. Nhà trí thức thì bảo : Mọi học thuyết đều được thực tế chứng nghiệm. Những gì đã xảy ra trong sự nghiệp của HCM cũng như của đồng đảng hơn nửa thế kỷ nay tại VN cho thấy di chúc và di sản HCM để lại là gì. Cái gọi là “tư tưởng HCM” mà thực chất và chung quy chỉ là chủ nghĩa CS, thì đó “chính là một tà giáo đại bịp nhất trong lịch sử loài người mà những tên lãnh tụ tối cao của chúng dựa vào đó để gây chiến tranh nồi da xáo thịt, để tiến hành âm mưu hiểm độc tiêu diệt mọi lòng tin, mọi nhận thức, mọi tình cảm, mọi tình yêu, kể cả lòng yêu nước của con người!” như lời nhạc sĩ Tô Hải trong “Hồi ký của một thằng hèn”. Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam như HCM ấp ủ trong Di chúc chỉ là một cuộc “chiến tranh ngu xuẩn” theo lời nhà văn kiêm bộ đội Nam tiến Dương Thu Hương, “là sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho một chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người đang âm mưu làm Vua của cái nước VN khốn khổ này bằng chiêu bài Độc lập, Tự do mà ở các nước người ta đã có từ nửa thế kỷ trước nay rồi vì người ta may mắn thay, đã không có đảng Cộng sản cai trị!” (nhạc sĩ Tô Hải). Việc chăm lo công tác xây dựng Đảng, như HCM huấn thị trong Di chúc, thì theo lời trung tướng Đặng Quốc Bảo trong cuộc phỏng vấn ngày 26-06-2009 : “Ta độc tài cộng sản. Sai lầm lớn nhất là ta dùng chuyên chính vô sản (thu cái độc tài cho một đảng, một nhóm người trong đảng nhân danh là CS rồi cuối cùng là độc tài của một cá nhân). Như nhà nước Liên Xô cũ là nhà nước bành trướng chủ nghĩa nhân danh CS, bành trướng đại đảng. Chỉ gây tai họa, hiểm họa… Khi lên cầm quyền đã thâu tóm quyền lực vào Đảng, rồi chỉ là một tập đoàn, một nhóm người, cuối cùng là quyền lực của một người. Đảng CS độc tài là như vậy”. Việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau ” (điểm 4 trong Di chúc), thì tướng Đặng Quốc Bảo nay cho thấy kết quả như sau : “Đoàn Thanh niên rất có tội, hàng năm giới thiệu tới 10 vạn thanh niên cơ hội chủ nghĩa vào đảng CS. Trong khi đó ở nước ngoài, học sinh, sinh viên là nòng cốt của quốc gia”. Còn về điểm “xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế ” tức là “tôi mong Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”, thì nay Việt cộng chỉ còn làm mỗi một chuyện: liên minh và thần phục Trung Cộng. Thần phục qua việc dâng đất dâng biển, qua việc trấn áp những ai phản đối Bắc triều (dù trên đường phố, trên biểu ngữ, trên blog, trên y phục), qua việc bỏ mặc ngư dân cho “tàu lạ” tàn sát cướp bóc… Vậy mà việc liên minh thần phục này cũng bị tướng Bảo phê liệt : “Trung Quốc đã, đang thực hiện và nhất định thực hiện các mưu đồ xâm lược VN. Trên thế giới chưa ai mưu sâu như Trung Quốc, chưa ai xảo trá, nham hiểm bằng Trung Quốc. Trung Quốc là xứ sở của ngụy biện và ngộ biện. Hiện nay VN chưa có nhân vật nào chọi được với Trung Quốc… Tai họa sẽ đến với VN, nếu những người lãnh đạo không nhìn rõ, không thấy được Trung Quốc là một đổi thủ nguy hiểm… Trung Quốc tham vô đáy, không khéo ta sẽ từng bước trở thành bộ phận Trung Quốc. Vì nói phải ngả về Trung Quốc để được yên là chủ nghĩa đầu hàng, chủ nghĩa thất bại. Ngả theo Trung Quốc thực chất là bán nước... Ông cha ta kiến võ chưa bao giờ có chủ trương ngả theo Trung Quốc… Trung Quốc thù dai lắm, nên nhớ!”

Khi khẳng định “HCM không bị đẩy lệch về kinh tế, không rơi vào “kinh tế luận”, ông “giáo sư” Tương Lai có nhớ chăng chính nền kinh tế tập trung, bao cấp kiểu Mác-Lênin mà HCM và đảng CSVN đã mù quáng và sắt máu theo đuổi suốt bao năm trời, từ 1954 đến 1985, với cuộc Cải cách Ruộng đất giết trực tiếp và gián tiếp nửa triệu nông dân, với cuộc Triệt tiêu Tư sản phá vỡ toàn bộ hệ thống kinh tế miền Nam, gây ra thảm họa kiệt quệ tụt hậu, đẩy cả nước đến bờ vực thẳm chết đói? Rồi khi khẳng định HCM “cũng không bị đẩy lệch về chính trị để rơi vào cái vũng bùn của quan điểm “chính trị là thống soái” từng gây nên bao thảm họa, càng không lệch về quân sự, để rơi vào sự sùng bái bạo lực, “chính quyền ra đời từ đầu ngọn súng”, đấu tranh giai cấp, “một mất một còn” trong cuộc chiến “ai thắng ai”, cội nguồn của bao tai họa mà di lụy của nó vẫn chưa gột sạch, có lúc lại trở thành cách đánh lạc hướng những đòi hỏi về dân chủ, dân quyền và dân sinh rất thiết thực trong đời sống của người dân”, giáo sư Tương Lai rõ ràng muốn bưng tai bịt mắt trước lịch sử đầy máu và nước mắt mà đảng CS viết ra tại VN kể từ ngày nó được thành lập cho đến tận bây giờ. “Chuyên chính vô sản” (nghĩa là “bạo lực vũ khí và bạo lực hành chánh”) trong việc quản lý xã hội, việc cai trị nhân dân, việc xử lý tôn giáo; “hồng hơn chuyên” trong việc tuyển người vào hệ thống cầm quyền, hệ thống giáo dục; “đi lề bên phải”, “nghe theo đảng, nói theo đài” trong việc hướng dẫn nền truyền thông, đó nghĩa là gì thưa ông “tiến sĩ xã hội chủ nghĩa” ?

Nói cho đúng, đảng CSVN đang trung thành thực hiện di huấn của HCM, đang rập khuôn lối sống của tay gian hùng này. Đó là tiếp tục bành trướng chủ nghĩa và chế độ CS dưới sự hướng dẫn của Trung Cộng (thay cho Liên Xô nay đã tiêu tùng), không cần biết Dân tộc, Tổ quốc. Đó là tiếp tục cai trị nhân dân cách sắt máu để giữ ghế quyền lực. Đó là khai thác Đồng bào đến tận mức (bán thanh thiếu nữ ra hải ngoại làm lao nô, tình nô; coi học đường như phương tiện để làm tiền, học sinh như phương tiện để hành dâm; lấy các nhà đối kháng làm con bài, con tin để mặc cả với thiên hạ; dùng lãnh đạo tôn giáo để ru ngủ quần chúng và tô vẽ cho chế độ…). Di sản HCM để lại chính là một đất nước ngạt thở về chính trị, suy đồi về văn hóa, thu hẹp về biên cương, giảm sút về uy tín, bấp bênh về số phận.

Ban Biên Tập (số 83, ngày 15-09-2009)
-Nhấn vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1 file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So83_15September2009.pdf

mercredi 16 septembre 2009

Ðiều lo nhất về Trung Quốc

Tuesday, September 15, 2009

Ngô Nhân Dụng

Có bẩy triệu người Việt Nam đã vào mạng lưới của nhóm trí thức chống việc các công ty Trung Quốc khai thác bô xít (bauxite). Người Việt ở trong và ngoài nước đều lo lắng về vụ này. Không biết đến lúc nào những người chủ trương mạng lưới đó sẽ bị bắt, như các ông Ðiếu Cầy và Người Buôn Gió.

Người Việt Nam cũng lo lắng về chủ trương bành trướng của Trung Quốc ở biển Ðông. Tờ Tuổi Trẻ tại Sài Gòn mới thuật lại cuộc chiến đấu của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chống quân Trung Quốc chiếm Hoàng Sa vào Tháng Chín năm 1974. Trên các mạng lưới đang truyền nhau những tin tức về việc Trung Quốc phát triển hải quân và so sánh lực lượng giữa nước này với nước Mỹ ở vùng Á Ðông.

Các hiện tượng trên cho thấy hai mối lo lớn của người Việt trước mối đe dọa của nước láng giềng phía Bắc. Một là Trung Quốc đang củng cố sức mạnh quân sự, họ có thể tái diễn những cuộc xâm lăng Việt Nam như vào thế kỷ 15 và 18 hay chăng? Hai là một “diễn biến hòa bình,” đang biến nước Việt Nam thành mảnh đất cho người Trung Quốc khai thác mà không cần phải xâm chiếm. Họ chỉ cần nắm đầu được một đảng độc tài là có thể sai bảo cả công an lẫn quân đội để dẹp tan những đám dân Việt phản đối.

Nhưng thực sự đâu là mối lo lâu dài và lớn nhất của dân tộc Việt Nam trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh?

Một người bạn tôi mới trở về Mỹ sau nhiều chuyến đi Tầu có một nhận định khác. Theo anh, những vụ Hoàng Sa, Trường Sa và Bô xít chỉ là chuyện trước mắt và ngắn hạn. Mối lo dài hạn cần chú ý là trong lúc người Trung Hoa đang quyết tâm tiến tới trên con đường cải tổ để bước vào thế kỷ 21 thì người Việt Nam vẫn bị lúng túng không thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu còn rơi rớt từ thế kỷ 19. Cứ như vậy thì trong một hai thế hệ nữa người mình sẽ trở thành lệ thuộc, nếu không phải là “nô lệ” cho người Trung Hoa; dù họ không đem quân chiếm nước mình, dù mình vẫn còn tên nước Việt Nam, vẫn có một chính phủ người Việt cai trị dân Việt. Trung Quốc sẽ làm chủ, người Việt làm công, và điều đáng buồn là cả thế giới coi đó là chuyện tự nhiên không cần can thiệp. Vì trong thế cạnh tranh sinh tồn hiện nay, dân tộc nào yếu thì sẽ đóng vai làm công cho dân tộc mạnh.

Tại sao có thể xẩy ra tình trạng đó? Anh Trần là người quốc tịch Mỹ, công ty anh đang đầu tư ở Trung Quốc làm một sản phẩm mới, sản phẩm này đang thông dụng rồi sẽ tràn ngập khắp thế giới trong vài chục năm nữa, chúng tôi xin phép không nói rõ hơn để khỏi làm phiền cho bản thân anh. Những cuộc gặp gỡ với quan chức và cán bộ quản lý kinh doanh ở Trung Quốc làm cho một người Việt như anh phải thấy sợ. Người Trung Quốc họ làm việc ào ào, mở rộng cửa đón tư bản nước ngoài để tiếp nhận các kỹ thuật mới, học cách tấn công các thị trường mới. Anh Trần so sánh giới quan chức, cán bộ Trung Quốc khác những người ở Việt Nam: Họ có ăn nhưng cũng có làm việc. Trong khi ở nước mình thì không lo công việc mà chỉ biết ăn. Công ty của anh đã thăm dò việc đầu tư ở Việt Nam mấy năm trước đây; nhưng phải bỏ ý định đó vì cả guồng máy cai trị từ trên xuống dưới vẫn coi người ngoài quốc đến nước mình đầu tư là đến “xin ân huệ” chứ không phải đem đến cho dân mình kỹ thuật mới, mở mang cho nước mình những ngành hoạt động mới. Có lẽ họ coi thường đồng bào người Việt mà chỉ biết kính trọng các ông chủ ngoại quốc. Nhưng họ vẫn giữ một thói quen: Chỉ lo bòn rút cho bản thân mình, không cần đến công việc.

Ở Trung Quốc thì khác. Từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, họ chiều đãi các công ty ngoại quốc đến đầu tư. Họ sẵn sàng cung cấp đất để mở cơ xưởng mà không lấy tiền thuê đất trong nhiều năm. Họ sẵn sàng góp một phần vốn nhỏ hơn 50% và người ngoại quốc đầu tư có quyền mua lại số cổ phần đó trong tương lai. Nghĩa là nếu công việc thất bại thì người ngoại quốc chỉ mất ít, là phần vốn đã bỏ vô dưới 100%; mà nếu thành công thì vẫn có hy vọng hưởng nhiều hơn bằng cách mua lại các cổ phần của người Trung Quốc. Một viên chức trẻ tuổi ở Bắc Kinh nói thẳng rằng anh ta có một quỹ đầu tư hàng tỷ Mỹ kim, lấy trong số ngoại tệ dự trữ hơn 2,000 tỷ của ngân hàng trung ương; và anh ta có quyền chi vào các dự án đầu tư với người nước ngoài.

Họ có tham nhũng hay không? Anh Trần thấy chắc là phải có. Thế nào họ cũng chấm mút khi được quyền sử dụng những món tiền lớn như vậy. Cứ xem cách ăn ở, giao dịch của họ thì biết. Nhưng có một điều là họ có làm, làm việc thực sự, một dự án nhà máy được hai bên đồng ý và chấp thuận rồi, ba tháng sau nhà máy đã được khánh thành. Họ chạy hối hả, và họ biết rõ đang muốn gì: Sản xuất đến xuất cảng. Du nhập kỹ thuật mới, phương pháp quản lý mới, phương pháp mới để chinh phục thị trường thế giới như các công ty Mỹ đang làm. Sang năm 2010 hội chợ Thượng Hải sẽ trưng bầy những sản phẩm mới cho cả thế giới thấy, trong đó sẽ có những sản phẩm của công ty anh Trần đang làm.

Họ coi anh Trần là người Mỹ, và nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lúc đầu khi anh tự giới thiệu là gốc người Việt Nam. Họ tỏ ra lễ phép với anh, nhưng không ngần ngại cho thấy là họ coi thường người Việt Nam. Ðây là một điều đau lòng, nhưng anh phải nói thật: Người Trung Hoa vẫn còn nhắc đến vụ đảng Cộng Sản Việt Nam “vô ơn bạc nghĩa” khi sau năm 1975 quay theo Nga để chống Tầu. Họ nhắc lại sự kiện này như để giải thích thái độ của họ: Khinh thường người Việt Nam! Chúng ta có thể thấy trong những mạng lưới bên Tầu khi họ công khai phổ biến những tài liệu chứng tỏ nếu không có quân đội Tầu giúp thì người Việt Nam không chống nổi Pháp mà cũng không đánh nổi Mỹ! Họ không ngần ngại sẵn sàng nói những lời miệt thị tất cả giới lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam, dù trước mặt một người Việt như anh Trần họ vẫn tỏ ra lịch sự, tôn kính. Ngay bây giờ, nhiều người Trung Hoa ở lục địa nói thẳng, các công ty Trung Quốc vẫn còn chú ý đến thị trường Việt Nam một chút. Vì họ coi đó là một nơi để “đổ rác,” tức là những sản phẩm thiếu tiêu chuẩn không được thị trường thế giới chấp nhận. Chính người Trung Hoa có tiền cũng không muốn mua những sản phẩm tiêu chuẩn thấp đó. Các xí nghiệp Trung Quốc sẵn sàng bán đổ bán tháo (dumping) những món hàng này sang Việt Nam, vì nếu không cũng vứt bỏ đi. Vì vậy, bán giá nào cũng được; mà người Việt Nam thấy rẻ thì vẫn ham mua. Nhưng đối với Trung Quốc, Việt Nam không đáng quan tâm. Họ lo chinh phục cả thế giới, và chỉ tôn trọng những nước có lực, có tiền!

Nhưng điều anh Trần lo lắng muốn chia sẻ với chúng tôi khi anh trở về Mỹ sau nhiều chuyến đi Tầu lo công việc, là người Trung Hoa họ quyết tâm tiến bộ thật, trong khi nước mình vẫn lúng lúng vì cả guồng máy cai trị tham nhũng và bất lực. Anh nhắc lại nhiều lần: Chúng nó cũng ăn, nhưng chúng nó có làm việc thật. Quan chức Việt Nam thì chỉ lo ăn mà không cần làm! Trong vài chục năm nữa, trong nửa thế kỷ nữa, người Tầu sẽ tiến xa, khoảng cách phát triển giữa hai dân tộc sẽ càng ngày càng rộng. Và lúc đó mình sẽ hoàn toàn đóng vai một nước phụ thuộc, nếu không nói là lệ thuộc, biến thành một thị trường và người làm công cho cường quốc kinh tế lớn nhất nhì thế giới ở ngay bên láng giềng!

Hiện nay người Việt chúng ta coi việc khai thác Bô xít ở Tây nguyên là một cuộc xâm lăng kinh tế đe dọa chủ quyền đất nước. Nhưng đối với người Trung Hoa ở lục địa thì đó cũng chỉ là một dự án nhỏ trong hàng ngàn dự án đầu tư để khai thác tài nguyên khắp thế giới, từ Á Châu sang Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Họ cũng sang Congo, sang Sudan khai thác quặng mỏ. Họ đầu tư vào dầu khí ở các nước Trung Á, ở Canada. Các công ty Trung Quốc đang đi mua cổ phần của các công ty tiên tiến nhất từ Âu Châu sang Mỹ Châu, dù chỉ một phần nhỏ. Một vụ nổi tiếng là dự án của Chinalco tính bỏ ra 19 tỷ rưỡi để tăng gấp đôi phần hùn trong công ty Rio Tinto ở Úc lên 18%, đã bàn cãi cả năm và mới bị Úc gạt bỏ vào Tháng Sáu vừa qua. Trung Quốc là thị trường lớn nhất mua quặng mỏ của Úc. Nhưng chính phủ Úc vẫn không cảm thấy sợ sệt lo làm vui lòng chính quyền Trung Quốc.

Ông thủ tướng Úc nói tiếng Tầu thông thạo, nhưng không ngần ngại tỏ ra bất cần trước những áp lực của Bắc Kinh. Trước khi ông Nguyễn Minh Triết sang Úc, một người đã được dân Úc tiếp đón là bà Rebiya Kadeer, một người gốc Uighur đang sống ở Mỹ và đang bị bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh mô tả là người thúc đẩy dân Uighur ở Tân Cương nổi loạn. Ðầu Tháng Tám, khi nghe tin dân Úc sắp mời bà Kadeer sang dự một liên hoan phim ảnh tại Melbourne trong đó chiếu một cuốn phim về cuộc đời tranh đấu của bà, Ngoại Trưởng Trung Quốc Hà Á Phi đã bãi bỏ một chuyến viếng thăm để tỏ ý phản đối. Chính phủ Tầu còn làm áp lực với ban tổ chức yêu cầu họ ngưng chiếu cuốn phim đó. Họ cũng làm áp lực lên thị trưởng thành phố Melbourne, đòi bãi bỏ việc kết nghĩa giữa thành phố này với Thiên Tân. Và họ làm áp lực cả với câu lạc bộ Báo chí Quốc gia tại thủ đô Canberra không muốn họ mời bà Kadeer đến diễn thuyết. Nhưng tất cả các áp lực đó đều vô hiệu. Và bên cạnh những la lối ồn ào đó, các bộ trưởng hai nước vẫn ký một hợp đồng, công ty PetroChina Trung Quốc mua 41 tỷ Mỹ kim khí đốt của công ty Exxon Mobil tại Úc. Dân Úc chống, cứ chống. Chính phủ Trung Quốc không bằng lòng thì rán chịu.

Trong lúc chính quyền Úc bình tĩnh và cứng rắn đối với Trung Quốc như vậy, thì ở Việt Nam những ai bầy tỏ ý kiến chống đối việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa trước sau đều bị đàn áp. Ðàn áp để làm gì? Có phải vì công an bắt người Việt Nam không được mặc áo phông viết chữ bảo vệ chủ quyền ở Hoàng Sa mà chính quyền Bắc Kinh tử tế hơn với nước Việt Nam, với đảng Cộng Sản Việt Nam hay không?

Mà trong lúc chính quyền Cộng Sản chỉ lo đàn áp dân như thế, người Trung Hoa họ vẫn tiến tới. Thế giới sẽ không thèm quan tâm đến chủ quyền của Việt Nam trên những vùng đất và biển đã bị chiếm. Vì nước nào lo quyền lợi của nước đó, không ai lo giúp chuyện người ngoài, dân tộc nào cố giữ lấy chủ quyền của mình. Bây giờ người Trung Quốc đã bắt đầu sang Việt Nam đóng vai ông chủ ở Cao Bằng, Lạng Sơn; cho người Việt đóng vai làm công và chạy việc. Anh Trần lo sẽ có ngày chính người Trung Quốc cũng không thèm đóng vai ông chủ nhỏ ở Việt Nam nữa. Vì họ còn lo đầu tư ở những nơi sinh lợi hơn và lo đi chinh phục các thị trường khắp thế giới.

Vậy thì người Việt Nam chúng ta phải làm gì? Ðây là một câu hỏi để mọi người Việt cùng suy nghĩ và thảo luận. Bởi vì dân Việt Nam không phải là dân hèn. Hãy coi mối lo lắng của anh Trần là tiếng chuông báo động.

Khi câm nín trở thành dấu chỉ

VietCatholic News (15 Sep 2009 14:46)
Cứ lặng thinh từ Thái-Hà, Tam-Tòa, Loan-Lý…
Rồi còn tiếp theo những Nhà Chúa sẽ bị cướp đi
Khi sự câm nín đã trở thành một dấu chỉ:
Của chuyện lương tâm, chứ chẳng phải chuyện từ bi!

Nói làm gì, nói làm được gì, nói làm chi?
Có khóc than, có chống đối cũng phải đi
Khi con người chấp nhận ngậm môi trước điều phi lý
Thì lời ủi an “đồng cảm” cũng chẳng ích lợi gì!

Ừ, có kẻ bảo có làm được chi đâu
Bao nhà thờ, đền tự dần mất theo nhau
Bao tín hữu với đôi bàn tay không cố níu
Cũng chẳng sao so với gậy côn bọn đầu gấu
Lũ công an, cả chế độ đứng đàng sau!

Hãy nhìn hình ảnh của bầy Thiếu Nhi Thánh Thể
Ngồi chồm hổm giữa nắng chang tay quẹt lệ nghẹn ngào
Từng toán công an, côn đồ với gậy côn đánh cha đập mẹ
Ấy chẳng phải là hình ảnh đau khổ của Chúa Giêsu trong chiều Thứ Sáu sao?

Hỡi những Si-mon, đường Gôn-gô-tha tuy không còn xa mấy
Nhưng kẻ tử tù chân bước đã hụt hơi
Ba lần té ngã, vun vút ngọn roi trên thân trần, bước chân run rẩy
Có giúp một tay vác phụ phút cuối của một kiếp người?

Triệu người quen biết có mấy người thân
Trong mấy kẻ thân có ai bớt ngại ngần
Không đi hộ, thì cũng xin mở miệng hộ
Cho lũ bất nhân bớt bất nhân!

Vinh dự của tín đồ là Thập Giá
Là hành trình biết đầy té ngã cũng cần qua
Mười hai tông đồ dù một đêm trốn chạy cả
Cũng trở lại theo chân đến chết - chết rất khác Giu-đa

Đền thờ Thiên Chúa ở nơi đâu?
Ở chính giữa lòng chúng ta đã, nào phải đền tự rộng cao
Thiên Chúa muốn lòng nhân, không cần lễ tế
Mến Chúa yêu người, nghĩa là cũng phải thương xót con người mới biết Chúa chẳng phải sao?

Hãy cất đi những lời cao siêu, những lặng thinh khó hiểu
Thiên Chúa bình dân, hiền dịu và rất gần
Chẳng cao xa tít xa như những lời Pha-ri-siêu lắm kiểu
Theo Chúa nghĩa là sống chết để san sẻ với đau khổ dân

Đường Ngài đi, Ngài chẳng cần hai áo
Vào Giê-ru-sa-lem đúng lúc chẳng nên vào
Nhưng Ngôn-Sứ biết chết cũng phải đi loan báo
Và Tiên Tri không thể chẳng truyền rao

Và Ngài vào thành lấy cây đuổi bọn buôn thần bán thánh
“Đừng biến Nhà Cha Ta thành sào huyệt của bọn bất lương!”
Đó là lần duy nhất Ngài ra tay đuổi đánh
Dù Ngài biết chắc chính mình sẽ trả giá đắc mọi tai ương!

Cứ lặng thinh đi từ Thái-Hà, Tam-Tòa, Loan-Lý
Rồi sẽ nhân danh ai để rao giảng bác ái từ bi
Khi sự câm nín đã trở thành một dấu chỉ:
Bỏ rơi anh em thì tôn thờ Thiên Chúa có nghĩa gì?!
lykhách

vendredi 11 septembre 2009

Ðiều kiện tạo tín nghĩa

Thursday, September 10, 2009

Ngô Nhân Dụng
Trong bài trước, mục này đã nhắc đến một “phép lạ xã hội” ở mấy nước Á Ðông theo truyền thống Khổng Giáo, trong mắt nhìn của một ký giả Mỹ. Khi kinh tế suy yếu, không có cảnh tội phạm tăng và gia đình tan vỡ trong các xã hội đó, như thường xảy ra ở nhiều nước phương Tây. Nhưng đối với người dân các nước Á Ðông này thì họ sống phép lạ đó hàng ngày. Họ sống thuận thảo với nhau vì chia sẻ những niềm tin vào các quy tắc đạo lý, như tin rằng ai cũng tôn trọng tín nghĩa, tất cả đã “ký một hợp đồng chung sống” như vậy.

Trong xã hội nào mọi người cũng sống với những hợp đồng ngầm hiểu. Những người lái xe trên xa lộ ở Mỹ bắt buộc phải tin rằng hơn 99% những người lái xe khác đều tôn trọng luật đi đường. Nếu không thì cả hệ thống xa lộ thành rừng rú! Sống trong xã hội Á Ðông với truyền tống Nho Giáo cũng có những hợp đồng hiểu ngầm dài hạn loại đó. Ra đường gặp ai là có thể tin đến 99% rằng người đó cũng được cha mẹ dạy các quy tắc Lễ Nghĩa Liêm Sỉ giống như mình. Căn bản của lối sống có Tín Nghĩa là lòng kính trọng người khác, quan tâm đến sự an vui của họ, lo giữ mối liên hệ với người khác được thuận thảo. Tại sao các nước Á Ðông giữ được những bản hợp đồng Tín Nghĩa suốt đời này sang đời khác? Nói theo lối kinh tế học thì lý do là không ai muốn phá vỡ bản hợp đồng tín nghĩa vì nếu nó bị phá bỏ đi chính mình sẽ bị thiệt thòi, đời sống mỗi người sẽ “tốn kém” hơn!

Sau khi nghe kể chuyện ở thành phố Tokyo, 26 triệu người và tại nhiều thị xã nhỏ ở Mỹ người ta có thể bỏ xe đạp ngoài đường mà không lo phải khóa, có độc giả đã viết thư nhắc nhở rằng hồi xưa ở nước ta cũng vậy. Một vị cho biết năm 1954 ở Sài Gòn ông đã sống như thế. Ðêm không khóa cửa, xe đạp dựng trước nhà cũng không khóa. Một vị độc giả khác kể chuyện năm 1959 ông dựng cái xe đạp ngoài bờ sông Sài Gòn đứng hóng mát; sau đó có một người rủ lên xe hơi đi uống bia. Ông đi tới 11 giờ khuya, trở lại Bến Bạch Ðằng thấy cái xe không khóa vẫn dựng đó không mất. Cái phép lạ xã hội mà nhà báo Mỹ thán phục, ngày xưa ở Việt Nam cũng xảy ra.Chắc lối sống của dân Sài Gòn hồi 1954, 59 cũng không khác gì đời sống ở Tokyo ngày nay. Nếu như dân ta giữ được nếp sống đó cho tới bây giờ thì cuộc sống mọi người chắc vui vẻ hơn, nhàn nhã hơn, và nghĩ đến tương lai con cháu cũng sẽ yên tâm hơn nhiều.

Làm sao để xã hội giữ được những quy tắc sống có Tín Nghĩa? Làm cách nào mọi người nhìn thấy nhau là hãy tin cậy trước khi nghi ngờ, nghe ai nói gì thì trước hết hãy coi đó là lời nói thật? Chúng ta có thể thiết lập lại bản hợp đồng xã hội lấy Tín Nghĩa làm tiêu chuẩn sống?

Có lẽ chúng ta sẽ tránh không lên giọng hô hào phục hồi môn đạo đức trong trường học, dù đó là một việc bắt buộc phải làm. Vì dạy thêm một số quy tắc đạo đức cho trẻ em mà khi ra ngoài xã hội các em thấy mọi người (có khi cả cha mẹ các em) không sống theo các quy tắc đạo đức, thì cũng không ích lợi lắm. Hô hào trên báo, đài cả ngày cũng chưa chắc có hiệu quả.

Nên tìm ra những giải pháp thực tế. Mà khi nói đến chuyện thực tế thì có một cách là tính toán theo lối kinh tế học. Theo lối nhìn kinh tế học thì phương cách tốt nhất để một người khác có thể tin mình là làm sao người ta thấy nếu mình không làm đúng lời mình nói, đúng lời hứa hẹn, thì sẽ bị thiệt hại rất lớn. Tức là có hai con đường: Giữ lời hứa có thể bị thiệt, nhưng còn có thể không bị thiệt. Ngược lại, nếu không giữ lời thì sẽ bị thiệt hại rất nhiều, với xác suất 100%! Nếu mọi người trong một xã hội đều thấy như vậy thì hầu hết, nếu không nói là tất cả, sẽ cố giữ Tín Nghĩa, và xã hội sẽ thay đổi.

Quy tắc này đã được sử dụng trong đời sống: Khi chúng ta đi vay nợ, ngân hàng yêu cầu phải có vật cầm thế “làm tin.” Nếu mình không trả nợ, sẽ mất mát nhiều hơn! Vua nước Tần muốn nước Triệu tin lời giao ước của mình thì cho một hoàng tử sang ở nước Triệu làm “con tin.” Hành động đó cũng không khác gì mình cầm thế cái nhà cho ngân hàng khi vay nợ.

Vua nước Triệu có thể lầm, nếu vua Tần thực lòng không coi tính mạng đứa con mình ra gì cả; hoặc ông ta sẵn sàng hy sinh con để mưu đồ một sự nghiệp lớn hơn. Tại sao vua Triệu có thể bị lừa? Vì trong vụ giao dịch giữa Tần và Triệu, không có những tiêu chuẩn định giá khách quan để xem giá trị tính mạng ông hoàng tử đối với vua Tần cao hay thấp. Bây giờ khác. Các ngân hàng thường tìm được giá thị trường của một ngôi nhà, họ chỉ cho vay khi giá trị đó cao hơn món nợ rất nhiều; cho nên ít khi họ lầm. Thị trường là nơi cung cấp những tin tức khách quan, khác với tình cha con của vua Tần mà chỉ ông ấy biết. Trừ khi chính các ngân hàng cũng làm bậy vì họ bỏ qua những quy tắc tín dụng! Chuyện đó mới xẩy ra ở Mỹ, không phải lỗi ở thị trường mà lỗi của ngân hàng.Trong cả hai trường hợp, đưa hoàng tử đi làm con tin hoặc cầm thế nhà để vay nợ, người ta đều thấy nếu một người không giữ đúng lời hứa thì hắn ta sẽ chịu một sự thiệt hại lớn, còn nếu giữ lời hứa thì sẽ đỡ hơn. Ðó là một cách bảo đảm người hứa hẹn sẽ giữ lời. Có một cách bảo đảm cho người ta phải giữ lời hứa trong xã hội bây giờ là ai không giữ lời sẽ bị ra tòa án. Tòa án là một định chế để trừng phạt những người không làm đúng hợp đồng. Nhưng đó phải là những hợp đồng công khai và minh bạch.

Dmitry Karamazov, nhân vật của Dostoievsky kể chuyện một viên trung tá trong quân đội Nga hoàng, có trách nhiệm quản trị ngân quỹ cả đơn vị lục quân. Sau mỗi lần thanh tra tài chánh đến khám sổ sách, đếm tiền, viên trung tá này lại đem một món tiền lớn trao cho Trifonov, một thương gia. Sau khi dùng tiền vốn này buôn bán, Trifonov sẽ đem trả lại vốn và lãi, cộng thêm những món quà hậu hĩnh. Cả hai cùng có lợi, mà ngân quỹ vẫn không bị mất đồng nào. Cho tới bữa viên sĩ quan tài chánh bị đổi đi. Ông ta đến Trifonov đòi lại 4,500 rúp trả vào quỹ. Nhà buôn này chối biến, “Tôi vay nợ ông đồng nào đâu, mà ông đâu có tiền, làm sao tôi vay tiền của ông được nhỉ?”

Dmitry Karamazov nhận xét rằng viên trung tá đã quá tin tưởng vào Trifonov. Niềm tin này dựa trên giả thiết là Trifonov phải giữ lời hứa, phải tôn trọng bản hợp đồng ngầm hiểu giữa hai bên, bản hợp đồng đó tạo ra một người thì tin và người kia thì được tin tưởng. Nhưng họ có ký kết một bản hợp đồng nào hay không? Nghĩa là người này có thể kiện người kia ra tòa nếu hắn không tôn trọng hợp công hay không? Trong trường hợp này rõ ràng là không. Không ai dám ký một bản hợp đồng viết rằng “Chúng tôi thỏa thuận cùng nhau rút bớt tiền viện trợ của Nhật Bản để cùng nhau đi cá độ bóng đá!”

Khả năng có thể ký hợp đồng mà bản hợp đồng có hiệu lực thi hành, đó là một nền tảng tạo ra lòng tin tưởng lẫn nhau. Cuối thời Chiến quốc và thời Tam quốc, việc thi hành hợp đồng là do người ta tự làm lấy. Vũ lực là cách họ quen dùng để thi hành các bản hợp đồng. Giống như các đảng Mafia bây giờ vẫn áp dụng. Vì họ không thể ký những hợp đồng cùng đi ắn cướp hoặc giết người. Theo lối mafia, ai không làm đúng hợp đồng thì cho một lưỡi đao!

Còn trong xã hội văn minh thì niềm tin giữa mọi người dựa trên pháp luật. Muốn người ta tin thì phải làm sao người ta thấy họ có thể kiện mình ra tòa, như Thomas Schelling từng diễn giải: Một người dễ được tin tưởng vì hắn có thể bị kiện! Ở các quốc gia Á Châu (ngoài Việt Nam và Trung Quốc), người dân bớt thói quen hối lộ quan chức chính vì người ta biết các quan chức cũng có thể bị kiện ra tòa. Các quan chức cũng biết họ có thể kiện ông thủ tướng, ông tổng thống ra tòa. Một người có thể bị kiện ra tòa thì dễ được người khác tin tưởng hơn. Nếu tất cả đều phải sống theo quy tắc đó thì chúng ta có thể tạo nên niềm tin cho cả nước. Thí dụ, niềm tin vào guồng máy công chức trong sạch.

Một xã hội sống trong Tín Nghĩa thì chắc chắn phải coi chuyện tham nhũng là chuyện bất thường. Những người hối lộ và ăn hối lộ đều “xé bản hợp đồng” mà mọi người đã thỏa thuận ngầm với nhau. Cũng giống như nếu có người lái xe ra đường mà bất chấp luật lệ. Nếu nhiều người cứ ngang nhiên lái như thế mãi thì coi như cả thành phố hay cả nước không có luật lái xe. Bản hợp đồng bị xé, mạnh ai nấy sống. Nạn tham nhũng là thứ làm tiêu hao đạo lý của một xã hội rất tai hại, chưa kể những thiệt hại vì kinh tế không tiến được đúng mức. Vì khi bản hợp đồng đạo lý của xã hội bị xé rồi, rất khó tái lập. Phá nó rất dễ, xây dựng thì rất khó.

Những người cầm quyền ở Nhật Bản, Nam Hàn hay Ðài Loan đều hứa hẹn với dân chúng là họ không chấp nhận cho quan lại tham nhũng. Các quan chức nước họ cũng đều hứa hẹn với cấp trên như thế. Bất cứ chính quyền nào cũng có thể đều hứa hẹn như vậy, nhưng làm sao cho dân tin?

Một yếu tố giúp cho nạn tham nhũng ở các nước này giảm bớt là vì người ta biết có những tòa án xử tội người tham nhũng rất nặng. Trước khi xé bản hợp đồng với xã hội mà ăn hối lộ, nếu biết trước là mình có thể bị thiệt hại rất nặng nếu bị bắt, thì thế nào người ta cũng ngần ngại không đòi đút lót nữa. Xác suất bị bắt càng lớn thì càng bớt tham nhũng. Ở Mỹ khó lòng hối lộ một cảnh sát viên, vì lương một anh cảnh sát mới ở Los Angeles, chỉ cần tốt nghiệp trung học, cũng trên 50,000 đô la một năm, bảo hiểm y tế tốt, hưu bổng đầy đủ. Nếu bị ra tòa rồi mất công việc đó thì sẽ thiệt hại vô cùng. Và nhờ báo chí được tự do, những việc tham nhũng, hối lộ rất dễ bị khui ra, xác suất bị truy tố rất cao. Nếu một hệ thống để cho xác suất bị bắt thấp, mà sự trừng phạt cũng nhẹ, thì chắc chắn sẽ sinh ra tham nhũng, hối lộ.

Làm sao để cho xác suất tội tham nhũng bị khui ra càng cao càng tốt, đó là một cách giảm bớt tham nhũng. Muốn vậy thì ngoài guồng máy tư pháp chính thức, cần phải có nhiều bộ máy tư nhân tham dự việc tố giác tội tham nhũng. Xã hội công dân càng phát triển thì càng nhiều người để làm công việc đó. Có nhiều người sẵn sàng làm công việc đó, vì có lợi cho họ. Ðó là các nhà báo. Ai điều tra ra những vụ tham nhũng và loan tin sẽ được nhiều người đọc, nhiều người kính trọng. Chính họ sẽ tự nguyện đi tìm ra những tin tức đó.Cho nên có hai điều kiện để xã hội sống có tín nghĩa hơn: Báo chí tự do và hệ thống tư pháp nghiêm minh. Ðó là những bảo đảm cho guồng máy hành chánh trong sạch hơn. Chính áp lực tinh thần của xã hội chung quanh là yếu tố tối cần thiết giúp nạn tham nhũng bớt đi. Khi mọi người cùng nghĩ rằng sống ngay thẳng, lương thiện là chuyện tự nhiên, ăn hối lộ, đút tiền là việc bất thường, thì phép lạ xã hội không còn là phép lạ nữa.

mercredi 9 septembre 2009

Phép lạ truyền thống Á Ðông

Tuesday, September 08, 2009
Ngô Nhân Dụng
Ở nước Mỹ có những nơi người ta không có thó quen khóa cửa xe khi đậu ngoài đường ban đêm. Tại Brattleborrough, tiểu bang Vertmont, khi tôi cẩn thận khóa cửa xe trước khi vào nhà, người bạn Mỹ cười: “Anh vẫn làm như ở thành phố lớn nhỉ?” Tại thị xã Dubuque, Iowa, có 100,000 dân, gia đình con gái tôi cũng không quen khóa xe khi đậu trước cửa nhà qua đêm. Ban ngày, cả nhà đi làm hoặc đi học, lúc đi cũng không khóa cửa nhà. Tất nhiên trong các thành phố lớn thì khác.

Nhưng ở Nhật Bản, thủ đô Tokyo là một thành phố lớn 26 triệu người, một ký giả Mỹ ở đó 5 năm trời, cũng ngạc nhiên vì trong xóm không ai lo nạn trộm cắp. Các con anh đi xe đạp về nhà bỏ xe trước cửa không bao giờ phải khóa. Và không bao giờ bị mất. Ðứa con gái 9 tuổi được một cô bạn Nhật rủ đi chơi sở thú, mỗi chuyến đi xe điện mất 90 phút, đổi tầu ba lần, nhưng cha mẹ cô bé người Nhật không tỏ vẻ gì lo âu. Anh coi đây là một phép lạ!

Sau những năm 1970, chúng ta thường nghe nói đến “Phép lạ kinh tế” của những con rồng nhỏ Á Ðông: Những nước Ðài Loan, Nam Hàn, Singapore và lãnh thổ Hồng Kông phát triển kinh tế nhanh chóng. Một nhà báo Mỹ đã nhìn thấy một thứ phép lạ khác: Phép lạ xã hội trong vùng đất này.

T.R. Reid đã sống nhiều năm ở Nhật Bản và đi khắp miền Ðông Châu Á. Năm 1997 có một cuộc khủng hoảng tài chánh và khủng hoảng kinh tế ở vùng này. Năm sau, Reid giúp hướng dẫn một đoàn quay phim Mỹ đi làm một phim tài liệu về ảnh hưởng của tình trạng kinh tế suy sụp trên xã hội Nhật Bản. Ði mãi, nhà sản xuất hỏi nhà báo: Ðâu? Khủng hoảng đâu? Ði tìm những nơi tụ tập người vô gia cư coi? Phải tìm ra một cảnh gia đình tan vỡ để phỏng vấn chứ? Ðoàn quay phim thất vọng.

T. R. Reid kể vào giữa thập niên 1990 anh đã chứng kiến cảnh suy sụp của thị trường chứng khoán Tokyo và bao nhiêu người phá sản vì trái bong bóng trong thị trường địa ốc cũng bể vỡ. Ba bốn năm sau kinh tế vẫn tiếp tục đi xuống, anh đã tới phỏng vấn vị tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, để hỏi xem số người phạm pháp đã tăng lên như thế nào. Người chỉ huy cảnh sát cả nước Nhật lễ phép trả lời anh rằng số tội phạm đã giảm xuống trong 20 năm qua, và trong hai năm gần đây vẫn tiếp tục giảm. Reid giải thích rằng theo các cuộc nghiên cứu xã hội học ở Mỹ thì khi kinh tế xuống tình trạng phạm pháp, số gia đình ly dị thế nào cũng tăng, vì thế anh mới đặt câu hỏi. Ông cảnh sát trưởng chỉ biết gật đầu một cách lịch sự: “À, ra thế.”

Sau khi đi thăm các quốc gia khác trong vùng, T.R. Reid khám phá ra một phép lạ khác ngoài phép lạ kinh tế, đó là một “phép lạ xã hội” mà các dân tộc này đã thực hiện được, mà người Tây phương chưa nhìn thấy. Kinh tế không quyết định lối sống của con người trong xã hội khi đối đãi với nhau. Những số thống kê cho thấy tỷ lệ tội phạm ở nhiều thành phố Mỹ cao gấp hàng chục lần, có nơi hàng trăm lần tỷ lệ ở Tokyo. Trong những năm kinh tế khủng hoảng sau năm 1997, số người phạm pháp ở Nhật Bản, Nam Hàn và Ðài Loan, từ tội sát nhân đến trộm cắp không tăng lên. Những quốc gia này đã tạo được một nền tảng tinh thần vững chắc, từ hàng ngàn năm, nền tảng đạo đức đó không lên xuống theo chỉ số thị trường và thống kê về tổng sản lượng nội địa. Ðó là một phép lạ xã hội làm một người Tây phương kinh ngạc.

Reid nhận thấy nền tảng đạo lý truyền thống trong các nước Á Ðông này là do lối giáo dục Khổng Giáo. Vì ông hàng xóm người Nhật của anh luôn luôn giải thích các điều anh thắc mắc về cách cư xử của người Nhật bằng một câu mở đầu: “Ðức Khổng Tử nói rằng...”

Những nhà kinh tế Nhật Bản mà tôi đọc giải thích cả nền đạo lý của nước họ là do ảnh hưởng đạo Khổng, được dậy theo lối các triết gia đời Tống bên Trung Quốc. Những quy tắc sống như Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ được các ông Trình, ông Chu đề cao đã tạo nên tinh thần các võ sĩ đời xưa cũng như cách hành động của các doanh nhân bây giờ. Lề lối quản trị xí nghiệp cũng như guồng máy hành chánh đều theo tinh thần Tống Nho. Nhiều tác giả Việt Nam trước đây hay trút hết mọi suy đồi trong xã hội mình vào thế kỷ 19 là do Tống Nho gây nên. Nhưng thứ Tống Nho đã gây ra tình trạng trì trệ về trí thức và ỷ lại về tinh thần đó thực ra do những Âu Dương Tu, Tư Mã Quang để lại. Ho đã củng cố chế độ nhà Tống bằng cách thiết lập một kỷ cương cho chế độ quân chủ tập quyền; họ ấn định phương pháp tuyển mộ quan lại bằng khoa cử, dần dần sinh ra bọn hủ Nho trọng khoa cử và bằng cấp, chỉ biết học thuộc lòng rồi lập lại nhưng điều học trong sách; còn trong hành động thì chỉ biết vâng lời vua quan. Chính đó là mầm mống gây nên cảnh suy đồi của giới trí thức Nho Giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, trong nhiều thế kỷ. Người Nhật cũng theo Tống Nho nhưng không tổ chức thi cử, trọng thực tài và thực dụng, chỉ dậy nhau các đạo nghĩa sống ở đời theo “Trình Chu sự nghiệp.”

Ðến thế kỷ 20 vừa qua, hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã thay đổi bằng cách du nhập chủ nghĩa Mác Lê Nin và đem guồng máy cai trị kiểu Stalin vào áp dụng trong việc chính trị. Những định chế thượng tầng này trong bản chất không khác gì chủ trương tôn quân và lối học từ chương nô lệ đời trước. Các chế độ Cộng Sản chỉ thay thế ông Vua bằng Ðảng. Các cán bộ, đảng viên đóng vai trò các hủ nho mới, tuyệt đối trung thành với đảng, cố học thuộc lòng các khẩu hiệu do các lãnh tụ nói ra, và không chấp nhận cho ai bất đồng ý kiến.

Cuốn sách mà Mao Trạch Ðông đọc hàng ngày không phải là sách của Karl Marx mà của Tư Mã Quang. Chế độ chính trị mà đảng Cộng Sản Trung Quốc lập ra không khác gì chế độ nhà Thanh, trừ các tên gọi. Cũng một chính quyền tập trung quyền hành, cũng một guồng máy thư lại làm tay sai cho Vua, hoặc Ðảng, và cả nước phải tôn thờ những ông thánh mới, học thuộc lòng cuốn Sách Ðỏ của Mao Chủ Tịch coi là một cuốn sách vạn năng. Nhà Nguyễn ở nước ta đã thiết lập một chế độ theo khuôn khổ nhà Thanh cai trị dân Hán. Luật Gia Long thay thế Luật Hồng Ðức cũng đề cao quân quyền; đề cao quyền của người đàn ông và giảm quyền phụ nữ; cũng ngăn cấm không cho học trò được viết những ý kiến mới dù chỉ cho bạn bè cùng đọc; cũng cấm dân không được phê bình quan lại, vân vân. Ðó là một guồng máy cai trị của một nhóm thiểu số ở Trung Quốc dùng để kiểm soát khối dân đa số. Nhưng đã được áp dụng vào nước ta từ thế kỷ 19.

Chủ nghĩa Mác Lênin gieo vào Trung Quốc gặp đúng mảnh đất đã được nhà Mãn Thanh chuẩn bị, chỉ cần hô ra những khẩu hiệu mới. Hồ Chí Minh theo đúng con đường mà Mao Trạch Ðông vạch ra; không khác gì Vua Gia Long theo Thanh triều. Hai nước cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đả kích Khổng Giáo để thay thế ý thức hệ cũ bằng chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng họ học Mác Xít theo lối dậy của Stalin cho nên vẫn là lối học nô lệ cũ. Như Hồ Chí Minh thường nói với các cán bộ: Bác Stalin không thể nào nhầm được. Vì tinh thần nô lệ tư tưởng và “suy tôn Ðảng như suy tôn Vua” như vậy cho nên các chế độ Cộng Sản đã không giúp được hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa thoát khỏi nền nếp mà đám hủ Nho đã tạo ra trên hai quốc gia này trong các thế kỷ trước.

Trong khi đó, các nước Á Ðông khác may mắn không theo chủ nghĩa Cộng Sản và tự giải phóng khỏi những gông xiềng quá khứ. Họ không tôn thờ Nho học nữa, mà cũng không cần nhập cảng một chủ nghĩa, một lý thuyết nào thay thế Nho Giáo. Nhưng vì các quốc gia này vẫn bảo vệ truyền thống cho nên những tinh túy trong nền đạo lý cũ vẫn được cả xã hội đề cao. Lễ Nghĩa Liêm Sỉ là cách sống với mọi người. Chính nền đạo lý mà Nho Giáo đã tạo ra ở các nước Á Ðông là một nguyên nhân giúp các nước này bước vào thế kỷ 21 với sức mạnh kinh tế và niềm tự tin vào dân tộc của họ.

Ðọc cuốn sách “Ông Khổng Tử bên hàng xóm” của T.R. Reid (Confucius lives next door), thấy ký giả này thán phục khi mô tả những đức tính của người Nhật trong việc cư xử với láng giềng, trong trường học, trong sở làm, đối với người ngoại quốc, vân vân. Người đọc phải thấy là người Nhật được cha mẹ, ông bà dậy dỗ những điều chẳng khác gì người Việt Nam mình, ít nhất là trong các gia đình Việt Nam vẫn giữ lễ giáo. Mà trong tất cả các trường học ở miền Nam trước năm 1975 các thầy cô cũng dậy học sinh như vậy. Phải tôn trọng của công? Phải giữ lời hứa? Phải kính trọng người lớn tuổi? Phải hòa thuận với xóm làng? Phải lễ phép với thầy giáo, cô giáo? Phải giúp đỡ người hoạn nạn? Nếu ai đã được học Gia Huấn Ca thì đều biết đó là những quy tắc luân lý bình thường mà gia đình Việt Nam nào cũng phải dậy con cái. Hiện nay ở nước ta các gia đình có lễ giáo vẫn dậy con cái như thế, không khác gì người Nhật Bản cả. Mà hàng ngàn năm trước đây, người Việt Nam vẫn dậy con như thế. Vậy tại sao một người ngoại quốc như T.D. Reid đã thán phục xã hội Nhật Bản sống đạo đức và an hòa trong khi hiện nay chính nhiều người Việt Nam cũng nhiều lúc đau lòng vì phong hóa, đạo đức xuống dốc? Khi so sánh nước mình với các con rồng Nhật Bản, Nam Hàn, Ðài Loan, Singapore, chỉ có một điểm khác biệt lớn, là các nước đó không sống dưới một chế độ độc tài Cộng Sản như ở nước ta.

Cho nên nếu có một chế độ chính trị thích hợp, dân tộc Việt Nam vẫn có thể phục hồi được truyền thống Lễ Nghĩa Liêm Sỉ không khác gì các nước Á Ðông khác. Phải có một chế độ đề cao chữ Tín thì trẻ em đến trường học chữ Tín dễ dàng hơn. Phải xóa bỏ hệ thống tham nhũng, thì trẻ em và người lớn mới tin ở điều Thiện. Phải chấm dứt chế độ độc quyền chính trị thì những người có thiện chí và có khả năng mới được tiến lên thay thế những người chỉ quen nịnh hót và luồn lọt. Chúng ta có thể tin tưởng rằng dân tộc Việt Nam có khả năng đó.

Một điều đáng lo là nhiều người quá quan tâm đến vấn đề kinh tế, chỉ muốn bắt chước các con rồng Á Ðông trên mặt phát triển kinh tế mà quên mất mối lo về xã hội. Sức mạnh của các quốc gia đó nằm trong truyền thống đạo lý của họ, tạo nên phép lạ mà một người Mỹ phải kính trọng. Dân Việt Nam cũng có đủ các hạt giống tốt đó, chỉ cần được tưới tẩm, vun trồng trở lại mà thôi.

Sẽ có ngày người dân Việt sống ở một thị xã như Cà Mau, Hội An, Bắc Giang có thể để xe trước cửa nhà mà không cần khóa, đêm không khóa cổng cũng vẫn ngủ ngon. Người ta ra đường không lo bị trấn lột. Trẻ em biết lễ phép, làng xóm sống hòa thuận. Sẽ có ngày phép lạ xã hội cũng xuất hiện với nước ta.

mardi 8 septembre 2009

Điên Đảo

ĐIÊN ĐẢO

Thích Viên Định

Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thường gán tội “cấu kết với các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền” lên các thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các Giáo Hội độc lập của các tôn giáo, các thân hào, nhân sĩ, các nhà trí thức, các văn nghệ sĩ, các sinh viên, học sinh biểu tình, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải cho Tổ quốc Việt Nam.

Không một quốc gia văn minh, dân chủ nào trên thế giới có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”, không luật pháp nước nào có tội danh đó.

- Tại sao Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản luôn có các “Thế lực thù địch” ?

Năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dùng vũ lực cưỡng chiếm miền Nam rồi duy trì sự cai trị độc tài, độc đảng suốt từ đó đến nay bằng súng đạn, quân đội, nhà tù, công an, khủng bố, bưng bít, lừa dối, tuyên truyền. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam là một trong số rất ít những nhà cầm quyền còn sót lại trên thế giới đã cướp chính quyền bằng bạo lực. Trong khi đó, toàn dân lại luôn mong muốn có một chính quyền được bầu cử hợp pháp bằng lá phiếu của người dân một cách tự do, dân chủ, công bằng, một chính quyền thật sự của dân, do dân, và vì dân. Không do dân bầu, bất hợp pháp, nên Nhà cầm quyền độc tài cộng sản Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất an, lúc nào cũng cảm thấy có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”.

Trong một chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng, câc đảng phái, mặc dù đối lập nhau, nhưng không thù địch, trái lại, hỗ tương, bổ khuyết nhau, rất cần cho sự cạnh tranh để phát triển đất nước. Trái lại, dưới chế độ độc tài, độc đảng, thì bất cứ tổ chức, cá nhân nào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, đều bị xem là vi phạm luật pháp, là thù địch.

Mặc dù bị nhà cầm quyền độc tài bỏ tù, quản thúc, gán tội vi phạm luật này, luật nọ, những điều luật mơ hồ, phản tự do, phi dân chủ, chống nhân quyền, trái với Công ước quốc tế… những người bị hãm hại này lại chính là những người mà Đức Cố Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang gọi là những người “tù không tội”. Bởi vì vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp công với đất nước, sao gọi là tội ?

- Các “ thế lực thù địch” của Nhà cầm quyền cộng sản là ai ?

“Thế lực thù địch” dễ biết nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở nước ngoài, tiếp đến là các đảng phái chính trị không cộng sản trong và ngoài nước, và cuối cùng là 85 triệu người dân Việt trong nước ngày đêm mong muốn được sống trong không khí Tự do, Dân chủ, Nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số tổ chức, hội đoàn và chính quyền các nước văn minh chống độc tài, độc đảng, yểm trợ các phong trào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng, phát triển tại Việt Nam.

- Có “âm mưu lật đổ chính quyền” hay không ?

Tất cả các đảng Cộng sản trên thế giới đều dùng bạo lực để cướp chính quyền. Trái lại, các đảng phái chính trị, không cộng sản, của người Việt trong và ngoài nước, các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh và 85 triệu người dân trong nước, hiện nay, không có thành phần nào chủ trương dùng bạo lực để lật đổ chính quyền.

Theo trào lưu dân chủ trên thế giới, người dân Việt Nam, ai cũng mong muốn có một cuộc bầu cử trong tự do, dân chủ, công bằng để bầu ra một chính quyền đích thực “của dân, do dân, và vì dân”. Đảng phái nào được dân ủng hộ, đắc cử, thì đứng ra lập chính quyền. Trong thế giới dân chủ, văn minh ngày nay không chấp nhận việc dùng bạo lực để cướp chính quyền. Cũng không chấp nhận việc dùng súng đạn, công an, nhà tù…để duy trì quyền lực.

Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam, theo chủ thuyết Mác-Lê, vừa sai lầm, vừa lạc hậu đã cản trở bước tiến của dân tộc. Vì đặc quyền đặc lợi, muốn tiếp tục nắm giữ quyền hành, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản lại không dám tranh cử công bằng với các đảng phái, cá nhân thuộc thành phần đối lập, nên cố tình gán cho các thành phần khác là “các thế lực thù địch” để dễ tuyên truyền, đàn áp, tiêu diệt. Việc ghép tội “âm mưu lật đổ chính quyền” lên các cá nhân, đảng phái đối lập là hoàn toàn vu cáo.

Tình trạng độc tài đảng trị lâu ngày sinh ra các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, cắt xén, mua bằng, bán chức…làm băng hoại xã hội, cản trở bước tiến của dân tộc. Lo lắng trước hiểm hoạ độc tài này, trong Thư Chúc Xuân gửi các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ năm Ất Dậu, 2005, Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã nói rằng, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong cương vị Tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị”. Hoà thượng đã đề nghị giải pháp đa nguyên đa đảng, bước đầu có thể là 3 đảng, “Chỉ cần một đảng tả khuynh, một đảng hữu khuynh, một đảng trung hòa đại diện cho các dòng suy nghĩ chính lưu”. Nhưng Nhà cầm quyền cộng sản cứ khăng khăng cố giữ thể chế độc tài độc đảng, cho rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Điều 4 trong Hiến Pháp hiện nay, dành cho Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước, giống như thời phong kiến, Thiên tử, con trời, được độc quyền cai trị đất nước, không ai được tranh giành.

Nghị quyết 1481, ngày 25.1.2006, Quốc Hội Âu châu đã lên án các Đảng cộng sản trên thế giới là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc, là tội ác chống nhân loại. Hoa kỳ đã lập Đài tưởng niệm trên 100 triệu nạn nhân đã bị các chế độ cộng sản sát hại trên thế giới. Vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục làm những việc trái luật pháp, phản dân chủ, bắt người, giam giữ mà không cho liên lạc với thế giới bên ngoài, không cho luật sư biện hộ, dùng những lời khai, đưa lên báo, đài để bôi nhọ, lăng nhục, trong khi Hiến Pháp, điều 72, xác nhận rằng : “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.

Không sao cả, có thể, nay một vài luật sư, mai vài ba bác sĩ, ngày mốt là các tu sĩ, bữa kia là công nhân, rồi tiếp đến là nông dân, thương gia, sinh viên, học sinh…các giới cùng bị đưa lên báo, đài, với cùng tội danh, “chống nhà cầm quyền độc tài, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý”. Càng có nhiều người chống độc tài, nền dân chủ sẽ đến với dân tộc ngày càng gần hơn.

Mỗi người, tuỳ sức khoẻ cá nhân, tuỳ hoàn cảnh gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu, có cách đối phó riêng trong cuộc chiến giành tự do rất gian khó này. Cần phải sống để giành cho được Tự do, Độc lập cho dân tộc. Cái tội, “chống độc tài, yêu tự do”, ai lại không muốn lãnh ? Nếu những người vận động cho tự do, dân chủ, nhất thời có bị đàn áp, chỉ đưa tới sự thắng thế của bạo lực, không có gì phải tủi hỗ. Cuối cùng, Tự do, Dân chủ sẽ thắng !

Tuy chăm chú việc lên án các đảng phái chính trị và những người khác chính kiến là “thù địch”, nhưng hiện nay Nhà cầm quyền cộng sản, luôn tránh né, không bao giờ đề cập, lên án tội “ Cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam”, cái tội liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của tổ quốc và dân tộc mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo, các đảng phái, các tổ chức, các sĩ phu, trí thức, sinh viên, học sinh và 85 triệu người dân đang rất quan tâm, hồi hộp, lo lắng từng ngày. Nếu gọi là thù địch thì giặc ngoại xâm mới thật sự là thù địch. Không nên điên đảo, nhìn kẻ cướp nước là bạn, xem đồng bào ruột thịt là thù.

Cái “ Thế lực thù địch lâu đời” này mới đáng lo, nó không âm mưu lật đổ chính quyền, mà nguy hại hơn, “âm mưu xâm chiếm Tổ quốc Việt Nam !” . Việc thay đổi chính quyền chỉ là chuyện nhỏ, chuyện nội bộ. Tổ quốc là của chung, không phải riêng ai. Các đảng phái thay nhau lập chính phủ chỉ là sự cạnh tranh, cần có, tránh sự trì trệ, để phát triển đất nước. Không thể một mình một chợ, một đội bóng một sân banh, mặc tình, tham nhũng, hối lộ, cắt xén, làm đất nước suy yếu, nghèo đói, tụt hậu. Nay, đảng này lên, mai, đảng kia xuống, chỉ là những chuyện thường ngày trong các bản tin thời sự quốc tế, không có gì là quan trọng, ầm ĩ hay thù địch. Tổ quốc bị xâm lăng mới là chuyện lớn, mới là chuyện thù địch.

- “Thế lực thù địch” của Dân tộc đang “âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam” là ai ?

Hỏi tức là trả lời. Toàn dân, già, trẻ, lớn, bé, ai cũng biết, cái “thế lực thù địch” với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay chính là Bắc phương ! Việt Nam đang bị Hán hoá ! Hoạ mất nước đã bắt đầu :

- Năm 1958, Nhà cầm quyền Trung cộng tuyên bố lãnh hải của Trung quốc bao gồm các hải đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam. Năm 1974, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng sa. Năm 1979, Trung cộng đánh chiếm 6 tỉnh miền Bắc, khi rút về, dời cọc biên giới, lấy mất Ải Nam quan, Thác Bản Giốc. Năm 1988, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Trường sa. Năm 2005, 2006, ngư dân Thanh Hóa ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt người bị thương, cướp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc. Năm 2007, Trung cộng tuyên bố thiết lập Huyện Tam sa bao gồm các quần đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam. Năm 2008, Trung cộng và nhà cầm quyền Hà nội hoàn thành việc cấm mốc biên giới phía Bắc lùi sâu vào địa phận lãnh thổ Việt Nam. Năm 2009, Trung cộng được nhà cầm quyền Hà nội mời vào khai thác quặng Bô-xit ở Tây nguyên, gây nguy cơ an ninh quốc phòng nơi vùng chiến lược yết hầu của Việt nam và Đông dương do sự uy hiếp của hàng chục nghìn công nhân Trung quốc. Ngoài ra còn tàn phá môi trường, thải ra hàng núi Bùn đỏ độc hại làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, lâu dài trong lòng đất, sông ngòi và khí hậu cho cả khu vực Nam Trung bộ và Miền nam Việt Nam. Nguy hại nhất là vị trí chiến lược quốc phòng bị chiếm đóng. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên Biển Đông, bắt tàu thuyền, ngư dân Việt Nam, đòi tiền chuộc…

Suốt 4 ngàn năm lịch sử, ông cha ta không làm mất một tấc đất, ngày nay, mới vài chục năm, tổ quốc đã bị xâm lấn từ biên giới phía Bắc đến hải đảo phía Đông, cả Tây nguyên cũng sắp mất.

Đã xác định được “thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc” là “Trung cộng” thì cũng xác định được :

- Ai là kẻ “cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc” ?

Nhân dân Việt Nam, với truyền thống anh hùng, mấy nghìn năm chống “thế lực thù địch phương Bắc”, tại sao ngày nay lại để quê hương tổ quốc, từng phần, rơi dần vào tay kẻ thù truyền kiếp một cách âm thầm như vậy ?

Phải có sự cấu kết trong nước nên các cuộc biểu tình, lên tiếng chống Trung cộng của sinh viên, học sinh và đồng bào ta mới rụt rè, yếu ớt, mau tàn rụi vì bị hăm doạ, cản trở từ phía Nhà cầm quyền vào đến cảc trường đại học bởi lý do : “không được phép”.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới vừa là kẻ xâm lăng vừa lại được ưu tiên trong việc đấu thầu các công trình khai thác ở Việt Nam.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới dễ dàng xâm chiếm các hải đảo, lãnh hải, biên giới, đưa dân tràn vào Việt nam một cách tự do, ào ạt, không cần chiếu khán. Đây là một cuộc xâm lăng kiểu mới, rất tinh vi, quân dân Trung cộng đang đổ bộ vào chiếm đóng nước ta một cách nhẹ nhàng, êm thắm, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu.

Quân đội và đồng bào ta đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tổ quốc trong các trận chiến đảo Hoàng sa năm 1974, đảo Trường sa năm 1988, nhất là cuộc chiến rất ác liệt ở biên giới phái Bắc năm 1979, gần 40 nghìn quân đân Việt Nam đã bỏ mình vì tổ quốc, vậy mà hàng năm không thấy tổ chức kỷ niệm, nêu gương hy sinh bảo vệ tổ quốc cho con cháu noi theo. Trái lại, cứ mỗi lần Tết đến, Nhà cầm quyền lại tổ chức viếng lễ các nghĩa trang quân xâm lăng Trung cộng, đặt vòng hoa : “đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung quốc”.

Công Hàm ngày 14.9.1958, do Thủ tướng Bắc Việt, Phạm văn Đồng, ký công nhận tuyên bố của Trung cộng, lãnh hải Trung quốc bao gồm đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, có phải là bằng chứng cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng tổ quốc ?

Phương châm 16 chữ vàng : “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt : “láng giềng tốt, hợp tác tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” có phải là bằng chứng của sự cấu kết ?

Đảng cộng sản Việt Nam theo chủ thuyết Mác-Lê với lý tưởng : “vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo”. Nếu hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc đã : “ hợp tác toàn diện” theo lý tưởng “vô tổ quốc” trong tinh thần : “đồng chí tốt” thì còn gì là Dân tộc !, còn gì là non sông !

Hoạ mất nước đã đến, tái hiện cảnh : Ngàn năm làm nô lệ Bắc phương !

Tổ quốc lâm nguy !!!

Thích Viên Định

Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
International Buddhist Information Bureau
Bureau International d'Information Bouddhiste
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : ubcv.ibib@buddhist.com
Web : http://www.queme.net