jeudi 22 octobre 2009

Hoi Ky Cua Mot Thang Hen

Check out this SlideShare Presentation:

dimanche 18 octobre 2009

Tranh chấp... giữa Hoa Kỳ & Trung Quốc

Trần Bình Nam

Tranh chấp vùng biển Tây Thái Bình Dương

giữa Hoa Kỳ và Trung quốc

(Bài thuyết trình của Ông Trần Bình Nam tạ buổi hội thảo Nam Cali)

1. Lời cám ơn

2. Bối cảnh

3. Sự quan trọng của hải lực : Thuyết “hải lực” của Hoa Kỳ

4. Chiến lược biển của Trung quốc

5. Trung quốc chuẩn bị vũ khí và căn cứ

6. Căn cứ tàu ngầm nguyên tử của Trung quốc

7. Sự quan trọng của căn cứ Cam Ranh đối với Trung quốc và Hoa Kỳ

8. Trung quốc kết bạn năm châu

9. Chạm trán giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trên Biển Đông

10. Chính sách của Hoa Kỳ

11. Thực tế trước mắt của Việt Nam

12. Kết luận

Lời cảm ơn:

Trước hết tôi xin cám ơn anh Lê Minh Nguyên đã mời tôi thuyết trình trước quý vị đề tài “Tranh chấp vùng biển Tây Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung quốc” trong buổi Hội thảo do Đại Việt Cách Mạng Đảng và đảng Tân Đại Việt cùng phối hợp tổ chức. Đây là một đề tài liên quan đến “Chính sách của Hoa Kỳ và Trung quốc tại Biển Đông” .

Với thời lượng Ban Tổ Chức dành cho tôi từ 20 phút đến 30 phút tôi sẽ không thể đi vào chi tiết của vấn đề rất rộng này. Tuy nhiên quý vị có thể tham khảo chi tiết trong diễn đàn điện tử www.tranhchapbiendong.com của cựu Trung tá Hải quân Nguyễn Mạnh Trí, người có mặt trong buổi hội thảo hôm nay. Hơn nữa chúng ta có phần thảo luận cũng là một là cơ hội để đi vào chi tiết.

Bối cảnh:

Bối cảnh của vấn đề tôi trình bày hôm nay liên quan đến an ninh của Hoa Kỳ, liên quan đến chiến lược bành trướng của Trung quốc và liên quan đến chính sách bảo vệ quốc gia của Việt Nam.

Hoa Kỳ là một trong 2 siêu cường trên thế giới (siêu cường kia là Liên bang Xô viết) của thế kỷ 20, và là siêu cường duy nhất còn lại của thế kỷ 21 nên không ai lạ về sự hiện điện của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, từ Âu châu, Á châu tại những vùng chiến lược như Đức, Nhật, Nam Hàn.

Và sự quan tâm của Hoa Kỳ đối với vùng Tây Thái Bình Dương trong đó có Biển Đông, một vùng biển được giới hạn phía Nam bởi Nam Dương, Mã Lai Á, Singapore, phía Đông bởi Phi Luật Tân, phía Tây bởi Việt Nam và phía Bắc bởi Trung quốc là một việc tự nhiên. Hoa Kỳ có nhiều hạm đội hiện điện khắp nơi trên thế giới. Hạm đội Thái Bình Dương thường được gọi là Hạm đội 7 phụ trách vùng Tây Thái Bình Dương .

Sau khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam năm 1975, ảnh hưởng của Liên bang Xô viết bao trùm vùng Biển Đông vì lúc đó Trung quốc còn đang bận rộn và tê liệt với cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976).

Nhưng sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ (năm 1991), Trung quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình cải tổ và theo đuổi chính sách siêu cường, Trung quốc bắt đầu thay thế Liên bang Xô viết trong vùng Biển Đông và trở thành lực lượng đối đầu với Hoa Kỳ.

Nếu nhìn trong bối cảnh thế giới Hoa Kỳ bảo vệ thế siêu cường trong khi Trung quốc muốn trở thành siêu cường thì sự chạm trán nhau là điều tự nhiên. Và đó là thực tế của thế giới hôm nay và sẽ là thực tế ảnh hưởng đến sinh hoạt chính trị thế giới có thể kéo dài nhiều chục năm nếu không muốn nói là cả thế kỷ trước mắt.

Phần trình bày hôm nay của tôi giới hạn nghiên cứu sự chạm trán trong vùng Biển Đông và từ đó rút ra cái thế sống còn của Việt Nam .

Nhìn vào bản đồ thế giới, ba phần tư (3/4) là biển, cho nên khi nói đến sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung quốc sự đối đầu đó không diễn ra trên đất liền mà chính yếu diễn ra trên biển cả, và gần nhất là đối đầu trên Biển Đông . Biển Đông là phòng tuyến xa bảo vệ Hoa Kỳ và Biển Đông vừa là hàng rào vào nhà vừa là cửa ngỏ đi vào đại dương của Trung quốc.

Sự quan trọng của hải lực : Thuyết “hải lực” của Hoa Kỳ



Để xây dựng một lực lượng bảo vệ và phát huy thế lực của Hoa Kỳ ra toàn thế giới Hoa Kỳ theo thuyết Mahan qua tác phẩm “Ảnh hưởng của hải lực đến lịch sử thế giới trong thời gian 1660 đến 1783” (The Influence of Sea Power upon History, 1660–1783) xuất bản năm 1890 . Ông Alfred Mahan là một giáo sư của Đại Học Hải chiến Hoa Kỳ (Naval War College), sau trở thành sĩ quan Hải quân. Ông soạn cuốn sách nói trên với mục đích làm tài liệu dạy học, nhưng những gì trình bày trong cuốn sách trở thành sách gối đầu giường của các chiến lược gia Hoa Kỳ và thế giới, trong đó có các nhà nghiên cứu chiến lược cận đại của Trung quốc .

Cốt lõi lý thuyết Mahan là: “Quan hệ quốc tế đều do sức mạnh của mỗi quốc gia. Và sức mạnh đó dựa vào sức mạnh của hải lực”

Giáo sư Mahan xác định 3 yếu tố của hải lực: (1) chiến hạm có vũ khí nặng với căn cứ tiếp vận (2) một đội thương thuyền có khả năng đi lại tự do để buôn bán mọi nơi trên thế giới (3) nhiều thuộc địa để yểm trợ cho các chiến hạm và thường thuyền.

Qua thời gian với kỹ thuật chiến tranh tối tân hơn, với sự hiện diện của vũ khí nguyên tử, với sự chuyển vận một khối lượng nhanh chóng của máy bay thuyết Mahan có nhiều thay đổi nhưng những nét chính không hề thay đổi và chúng ta có thể kết luận rằng hiện nay Hoa Kỳ đáng áp dụng thuyết Mahan trong việc phóng sức mạnh để bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ trên toàn thế giới.



Chiến lược biển của Trung quốc

Quan niệm sức mạnh trên biển của đảng cộng sản Trung quốc hiện nay chịu ảnh hưởng của giáo sư Ni Lexiong, thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh tại đại học Thượng Hải. Và giáo sư Ni Lexiong chịu ảnh hưởng sâu đậm của thuyết Mahan.

Cách đây chừng hơn 10 năm khi nghiên cứu triều đại nhà Minh (1368-1644) ông Ni Lexiong thấy sức mạnh của bộ binh dựa vài một nền kinh tế nông nghiệp không có cách gì đối đầu với sức mạnh trên biển dựa vào sự giao thương trên biển của Tây phương. Và ông là người đầu tiên suy nghĩ về một phương thế để chuyển sức mạnh của Trung quốc từ một lực lượng đất liền thành một lực lượng biển cả.

Và cũng như Hoa Kỳ Trung quốc đi vào con đường phát triển hải lực theo 3 nguyên tắc (1) tàu lớn, vũ khí mạnh và căn cứ (2) một đội thương thuyền hùng hậu và (3) một hệ thống quốc gia lệ thuộc hay đồng minh.

Trung quốc áp dụng quan niệm hải lực của Mahan một cách chặt chẽ hơn Hoa Kỳ vì Hoa Kỳ phát huy hải lực để bảo vệ quyền lợi của mình, trong khi Trung quốc phát huy hải lực để bảo vệ sự tồn tại của chính mình trước các khối sức mạnh khác bao trùm trên thế giới, trước hết là Hoa Kỳ .

Giáo sư Lexiong bảo vệ quan niệm bành trướng hải lực của ông bằng thuyết Hobbes (Thomas Hobbes). Thomas Hobbes là một nhà triết học chính trị người Anh trong thế kỷ 17 cho rằng sinh hoạt của cộng đồng quốc tế là sinh hoạt mạnh được yếu thua.

Giáo sư Ni Lexiong thường đặt câu hỏi “Nếu Trung quốc muốn phát triển sức mạnh kinh tế ra ngoài mà khi lâm chiến bị chặn đường biển thì Trung quốc sẽ sống như thế nào? Để trả lời ông thường lấy hai thí dụ làm bài học căn bản:

Thứ nhất là trận giặc Anh – Hòa Lan trong 2 năm từ 1652 đến 1654. Hòa Lan và Anh tranh hùng chiếm giữ eo biển Manche giữa Anh và Pháp. Hòa Lan không kiểm soát nổi eo biển để duy trì sự buôn bán với nước ngoài và sau 19 tháng chiến tranh tài nguyên quốc gia cạn kiệt, Hòa Lan phải chấp nhận hòa một cách nhục nhã với Anh để duy trì sự hiện hữu của Hòa Lan tại Âu châu.

Bài học thứ hai là trận chiến Trung – Nhật trong 2 năm 1894, 1895. Chỉ vì Từ Hi Thái Hậu lấy 7.5 triệu lượng bạc dành cho Hải quân để chỉnh trang cung điện mùa hè mà hải quân Trung quốc đã thua trước hải quân Nhật và Trung quốc mất Đài Loan cho Nhật và Trung quốc phải vay của Anh và Pháp 280 triệu lượng, tổng cộng kể cả tiền lời lên đến 600 triệu lượng, chưa kể sau đó Trung quốc còn thua thiệt rất nhiều trên mặt kinh tế và sự suy yếu chính quyền tại Bắc Kinh .

Cũng như ông Lexiong, các chiến lược gia Trung quốc cũng thấy rằng từ thời cổ Hy Lạp và cổ Roma đã có một quan hệ không thể tách rời giữa sức mạnh của một nước với sức mạnh của đội thương thuyền của nước đó. Và họ đi đến kết luận Trung quốc muốn vừa lớn mạnh vừa phát triển để tự bảo vệ Trung quốc cần có một đoàn thương thuyền đi đôi với một hải lực hùng mạnh và Trung quốc phải kiểm soát vùng biển trước mắt. Không như Hoa Kỳ biển trước mắt Trung quốc bao che bởi nhiều quốc gia, bạn ít thù nhiều. Đông có Nhật Bản, Nam có Phi Luật Tân, Nam Dương, Úc châu và Việt Nam.

Trước lý thuyết phát triển hải lực để bảo vệ an ninh và bành trướng thế lực, một số lý thuyết gia khác của Trung quốc muốn tìm một lối khác ít tốn kém hơn.

Họ đặt câu hỏi: Sự “toàn cầu hóa kinh tế thế giới” (Economic globalization) xuất hiện và gần như là ngôn từ đầu lưỡi của sinh hoạt kinh tế thế giới hôm nay có thể giúp cho Trung quốc phát triển kinh tế bền vững và lâu dài mà không cần phải có một hải quân hùng mạnh không?

Câu trả lời của giáo sư Ni Lexiong và được sự đồng thuận của giới lãnh đạo Trung quốc là: KHÔNG. Trung quốc không tin vào lý thuyết các quốc gia có thể được bảo vệ bởi luật lệ quốc tế qua các cơ cấu quốc tế như Liên hiệp quốc. Trung quốc xem Liên hiệp quốc là một cơ cấu có giá trị tương đối để giữ gìn ổn định trên thế giới đối với những tranh chấp không quan trọng và không đụng chạm đến quyền lợi của 5 nước Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc (HĐBA) gồm Hoa Kỳ, Nga, Anh, Pháp và Trung quốc. Cả 5 nước này đều có vũ khí nguyên tử đủ sức tàn phá cả thế giới và đang cầm “roi” trừng phạt bất cứ quốc gia nào khác (ngoài Ấn độ và Pakistan đã có vũ khí nguyên tử rồi) muốn phát triển vũ khí nguyên tử để tự vệ.

Trung quốc nghiên cứu kỷ các cuộc đụng độ trên thế giới sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt và thấy rằng chiến tranh tiếp diễn dưới nhiều hình thức và quốc gia có quân lực hùng mạnh vẫn là quốc gia có tiếng nói sau cùng: chiến tranh Kosovo năm 1999 giữa Serbia và NATO, chiến tranh Afghanistan, chiến tranh Iraq.

Đem áp dụng vào các tranh chấp đang diễn ra như Đài Loan, sự tranh giành Trường Sa với Việt Nam, đảo Sankaku (người Trung quốc gọi là đảo Diaoyu) với Nhật, Trung quốc cho rằng tất cả các tranh chấp này đều không có triển vọng giải quyết trong hòa bình. Tối hậu là phải dùng giải pháp quân sự.

Kết luận: Xây dựng một hải lực hùng mạnh đối với Trung quốc không những là một thực tế mà là con đường độc đạo để sống còn.

Trung quốc biết rằng xây dựng một hạm đội rất tốn kém, nhất là phí tổn duy trì nó trong thời bình. Với đà tiến bộ không ngừng của kỹ thuật và khoa học một hạm đội cần chỉnh tranh và cải tiến vũ khí không ngừng nếu không sẽ trở thành lỗi thời. Và Trung quốc lấy quyết định: Trả mọi giá để xây dựng một hải lực hùng mạnh để bảo vệ “không gian sinh tồn” của họ là biển Đông và eo biển Malacca vào Ấn Độ Dương.

Trung quốc chấp nhận đối đầu với hải quân Hoa Kỳ .

Và cuộc tranh chấp đó đã bắt đầu.

Trung quốc chuẩn bị vũ khí và căn cứ

Tôi không đi vào chi tiết. Tôi chỉ nêu ra vài sự kiện quan trọng và mới mẻ để quý vị quan tâm. Trung quốc có cơ sở đóng tàu và một chương trình đóng tàu với ngân sách phong phú. Trong vòng 10 năm qua Trung quốc đã đóng được nhiều chiến hạm lớn, và cũng đã đóng được tàu ngầm nguyên tử và đang trên đường đóng Hàng Không Mẫu Hạm.

Trong cuộc diễn binh ngày 1/10/2009 vừa qua tại Bắc Kinh, Trung quốc đã cho trình diễn khoảng 50 thứ vũ khí mới do Trung quốc chế tạo, và đáng quan tâm nhất là hỏa tiễn bắn theo đường đạn đạo DF-21 đặt trên đất liền. Hỏa tiễn này có khả năng bắn vào các mục tiêu di chuyển trên biển như các tàu chiến và có khả năng đánh đắm một Hàng Không Mẫu Hạm. Vũ khí này rõ là một tín hiệu cho Hoa Kỳ biết rằng tuy Trung quốc chưa có những đơn vị tác chiến bằng hạm đội Hàng Không như của Hoa Kỳ, nhưng hỏa tiễn DF-21 có tầm bắn 1000 hải lý có thể triệt tiêu khả năng của các đội Hàng Không Mẫu Hạm Chiến đấu (Carrier Strike Group) của Hoa Kỳ.

Căn cứ tàu ngầm nguyên tử của Trung quốc

Về căn cứ, ngoài việc tân trang căn cứ tàu ngầm ở căn cứ tàu ngầm Xiaopingdao trong vịnh Bố Hải thuộc tỉnh Hồ Bắc ở phía Bắc, hơn một năm trước đây (tháng 5/2008) Tây phương vừa phát giác rằng (do tạp chí tư nhân Jane’s Intelligence Review chuyên về quốc phòng cho phổ biến một số hình ảnh mua được của hãng vệ tinh tư nhân DigitalGlobe) Trung quốc đang thiết lập một căn cứ tàu ngầm nguyên tử tại Yulin (Sanya) nằm ở cực nam đảo Hải Nam. Các hình ảnh cho thấy một căn cứ tàu ngầm khổng lồ với nhiều cửa hầm (thấy được ít nhất 14 cửa) bề ngang 16 mét mở từ biển dẫn vào các hầm bên trong nằm dưới mặt đất. Các hình khác cho thấy hai cầu tàu dài và nhiều cầu tàu ngắn hơn có khả năng làm chỗ neo cho ít nhất hai đội Hàng Không Mẫu hạm Chiến đấu.

Tấm không ảnh đáng quan tâm nhất là tấm hình cho thấy sự có mặt tại căn cứ Yulin một chiếc tàu ngầm phóng hỏa tiễn chạy bằng nguyên tử lực loại 094 (Jin-Class). Tàu ngầm này mỗi chiếc trang bị 12 hỏa tiễn loại JL-2 mang đầu đạn nguyên tử được hướng dẫn (guided missiles) có tầm bắn xa từ 7.200km đến 8.000km, theo ước lượng đầu năm 2008 của Hoa Kỳ.

Đây là lần đầu tiên loại vũ khí này được bố trí xa về phía nam nhìn vào vùng nam Thái Bình Dương. Bộ quốc phòng Hoa Kỳ cho biết Trung quốc sẽ có 5 chiếc tàu ngầm loại 094 vào năm 2010.

Sự phát giác này làm cho giới quốc phòng Hoa Kỳ, Ấn độ, Úc châu, New Zeland và các nước trong khối Hiệp hội Đông nam á (Asean) tỏ ra rất quan tâm.

Sự di chuyển loại tàu ngầm này đến vùng biển Đông nằm đầu thủy đạo đi vào Ấn Độ Dương là một dấu hiệu Trung quốc thay đổi sự bố trí chiến lược quan trọng, mặc dù cho đến lúc này không một giới chức thuộc giới quốc phòng trên thế giới đoán biết Trung quốc có khả năng gì và dự tính gì.

Đặt vấn đề khả năng vì trước đây loại tầu ngầm mang hỏa tiễn nguyên tử Xia của Trung quốc đã ra khơi nhưng không làm ai e ngại vì di chuyển đến đâu cũng bị hải quân Hoa Kỳ theo sát (Trung quốc chưa nắm vững kỹ thuật khử từ trường của vỏ tàu). Nhưng lần này các hình ảnh cho thấy tại căn cứ Yulin có cơ sở khử từ, và nếu cơ sở này hữu hiệu thì tàu ngầm loại 094 sẽ có khả năng chiến lược và tính đe dọa rất cao. Nhất là vùng biển nam Hải Nam là vùng biển sâu. Chỉ cần ra biển vài kilomét là đã có độ sâu 5000 mét, nên khi tàu ngầm loại 094, nếu đã được khử từ tốt xuất phát công tác thì rất khó phát hiện.

Hai nước quan tâm nhất đến các hình ảnh mới tiết lộ này là Ấn độ và Hoa Kỳ. Nếu tàu ngầm loại 094 vào hoạt động tại Ấn Độ Dương thì bất cứ mục tiêu nào của Ấn độ cũng ở trong tầm bắn của hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử JL-2 . Lục địa Hoa Kỳ (CONUS) cũng là một mối lo trên nguyên tắc, nhưng Hoa Kỳ hẵn còn thừa khả năng theo dõi và Trung quốc biết điều này.



Sự quan trọng của căn cứ Cam Ranh đối với Trung quốc và Hoa Kỳ

Hiện nay căn cứ Cam Ranh là một căn cứ bỏ trống. Mặc dù cho đến nay chưa có tin tức gì xác nhận, nhưng cũng dễ đoán rằng Trung quốc đang ve vãn thuê bao dài hạn. Việt Nam chưa có thái độ gì rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên vì vị trí quan trọng của Cam Ranh đối với sự kiểm soát thủy lộ biển Đông nên sự xử dụng nó như thế nào trong tương lai là một chỉ dẫn chiều hướng chiến lược của Việt Nam.

Cam Ranh là một hải cảng nước sâu quan trọng nhất tại Á châu và nằm trên con đường án ngữ biển Đông từ Ấ độ dương lên miền Bắc Thái bình dương. Chiếm được Trường Sa mà không kiểm soát được Cam Ranh thì cũng chưa kiểm soát được đường biển huyết mạch này.

Người Pháp sau khi đặt xong nền đô hộ Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 19 đã biến Cam Ranh thành một quân cảng cho hải quân Pháp. Năm 1905 Pháp cho Nga mượn để đồn trú hạm đội trước khi đụng độ với hải quân Nhật. Trong thời gian chiến tranh Bắc Nam (1954-1973) Hoa Kỳ đã biến căn cứ Cam Ranh thành một căn cứ Hải-Không quân khổng lồ làm điểm tiếp vận cho toàn cuộc chiến. Năm 1973 Hoa Kỳ rút lui giao căn cứ Cam Ranh cho VNCH và Cam Ranh xuống cấp dần vì VNCH không đủ sức bảo trì và xử dụng .

Năm 1975 khi miền Nam sụp đổ Hải quân Bắc việt cũng không xử dụng nổi căn cứ. Năm 1979 Hà Nội cho Nga thuê 25 năm. Để chận đường tiến về phía Nam của hải quân Trung quốc Nga cho cho xây thêm 5 cầu tàu, 2 bãi đưa tàu lên cạn để bảo trì và sửa chữa, xây thêm cơ sở cho tàu ngầm ẩn núp, kho chưa dầu, nhà máy điện, doanh trại và kéo dài phi đạo . Năm 1991 Nga sụp đổ, Việt Nam ngả dần về Trung quốc, đòi tăng tiền thuê nên (năm 2001) Nga trả lại căn cứ cho Việt Nam.

Trong 8 năm qua Cam Ranh bỏ trống .

Trung quốc kết bạn năm châu

Theo đúng thuyết Mahan Trung quốc có chương trình kết bạn khắp năm châu, bành trướng thế lực, mở rộng không gian sinh tồn và tìm kiếm năng lượng.

Trung quốc bắt tay với mọi chế độ trên thế giới không phân biệt dân chủ hay độc tài, thân hay không thân Hoa Kỳ. Nam Mỹ, Phi châu nơi nào Trung quốc cũng vung tiền và phương tiện kỹ thuật để mua chuộc và bảo đảm sự cung cấp dầu hỏa và vị trí chiến lược tương lai cho hải quân. Trung quốc chơi với Venezuela và Sudan vì dầu hỏa dù tổng thống Chavez (của Venezuela) công khai chống Mỹ và Sudan áp dụng chính sách diệt chủng tại Darfur. Trung quốc yểm trợ chính quyền quân nhân toàn trị tại Miến Điện để mở cửa ngỏ chiến lược vào Ấn Độ Dương. Và Trung quốc kết thân với chế độ Pakistan để giữ cảng Gwadar kềm chế Ấn Độ.

Chạm trán giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trên Biển Đông

Với sự phát triển của hải quân Trung quốc trên biển Đông, sự chạm trán với hải quân Hoa Kỳ là điều không thể tránh khỏi .

Cuộc chạm trán đầu tiên diễn ra tháng 4/2001 khi Trung quốc cho máy bay khu trục ngênh máy bay trinh thám của Hoa Kỳ ngoài khơi biển Hải Nam. Trung quốc đã giải quyết trong tinh thần nhượng bộ .

Nhưng nếu trước đây Trung quốc dè dặt thì trong những năm gần đây trước sự khủng hoảng kinh tế tại Hoa Kỳ và trên thế giới, một cuộc khủng hoảng Trung quốc ít bị ảnh hưởng nhất, Trung quốc đã tỏ ra không ngại các cuộc chạm trán với Hoa Kỳ trên biển Đông.

Năm nay (2009) hải quân Trung quốc 2 lần chạm trán với Hải quân Hoa Kỳ. Lần thứ nhất ngày 8/3 các thuyền nhỏ Trung quốc quấy rối chiếc USS Impeccable đang làm công tác đo đạc và dò tìm dưới đáy biển cách đải Hải Nam 75 dặm. Để trả lời Hải quân Hoa Kỳ phái một khu trục hạm đến hộ tống chiếc Impeccable. Đáp lại Trung quốc phái một chiếc tàu kiểm soát ngư nghiệp đến trong vùng. Ngày 11/6 một tiềm thủy đỉnh Trung quốc đụng máy sonar đang được tàu USS John McCain kéo cách căn cứ Subic bay 144 dặm.

Trước đó Trung quốc đã làm mọi những gì cần thiết để tỏ cho Hoa Kỳ biết rằng biển Đông là một phần biển của họ.

Ngày 4/9/1958 Trung quốc ra thông cáo tuyên bố hải phận của Trung quốc sẽ là 12 hải lý (chứ không còn là 3 hải lý như trước), và khéo léo kèm tuyên bố đó một bản đồ Biển Đông bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (được thế giới gọi là bản đồ biển hình lưỡi bò – tài liệu Trung quốc www.hku.hk/wa/conlawhk) ý nói rằng cái gì trong lưỡi bò là biển của Trung quốc và hải phận 12 hải lý áp dụng cho các hòn đảo trong cái lưỡi bò. Hoa Kỳ và các nước trong vùng đều công nhân tuyên bố hải phận 12 hải lý của Trung quốc nhưng không nước nào công nhận cái bản đồ hình lưỡi bò của Trung quốc.

Ngày 19/1/1974 dùng hải quân cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa làm thiệt mạng 50 binh sĩ hải quân VNCH

Ngày 14/3/1988 chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa; giết chết hơn 80 binh sĩ hải quân Bắc việt

Ngày 14/4/1988 tuyên bố sát nhập 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam.

Tháng 12/2007 Trung quốc ban hành nghị định thành lập huyện Tam Sa bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (dù đang còn tranh chấp với Việt Nam và vài quốc gia trong khối Asean).

Nghị định này là một thách thức đối với Hoa Kỳ vì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên thủy đạo quan trọng nối liền Ấn Độ Dương với bắc Thái Bình Dương, con đường chuyển vận 80% dầu hỏa cho Nhật Bản một đồng minh then chốt của Hoa Kỳ trong vùng tây Thái Bình Dương.

Có điều đáng để ý là dù vậy Hoa Kỳ cũng không lên tiếng, ít nhất về mặt chính thức.

Trong những tháng cuối năm 2008 các giới chức ngoại giao Trung quốc tại Hoa Thịnh Đốn đã tiếp xúc với các viên chức của công ty dầu khí ExxonMobil của Hoa Kỳ yêu cầu rút lại các giao kèo khai thác dầu hỏa tại hai vùng trong Biển đông đã ký với công ty quốc doanh PetroVietnam. Vùng thứ nhất nằm sát bờ biển Quảng Nam và Quảng Ngãi gồm một hình tam giác ép sát bờ biển diện tích 2.166 km2 và một hình chữ nhật chiều cao 153km, chiều ngang 105km, diện tích 16.065 km2 . Tổng cộng diện tích vùng thăm dò này dựa vào bản đồ chừng 18.231km2. Đường biên ngoài cùng của vùng này cách thành phố Đà Nẳng 162 km.

Vùng thứ hai là một hình chữ nhật chiều cao 96km, chiều ngang 148km, diện tích chừng 14.200 km2 phủ lên các bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường và Phúc Nguyên nằm về phía đông nam Vũng Tàu cách thành phố Sàigòn 440 km, và cách đảo Côn Sơn 374 km trực chỉ hướng 4 giờ. Vùng này nằm trong quần đảo Trường Sa.

Theo quan điểm của Trung quốc, vùng phía bắc lấn qua vùng khai thác kinh tế của đảo Hoàng Sa Trung quốc chiếm năm 1974, trong khi vùng phía nam nằm trong quần đảo Trường Sa Trung quốc từng tuyên bố là đất của mình. Lúc đầu bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố mạnh mẽ, nhưng cuối cùng hãng ExxonMobil cũng ngừng các kế hoạch dò tìm. Lưu ý rằng tháng 3 năm 2007 hãng dầu BP (British Petroleum, một công ty liên doanh Anh-Hòa Lan) ký giao kèo dò tìm dầu mỏ với Việt Nam cạnh vùng phía Nam (một trong hai vùng vừa ký với hãng ExxonMobil) Trung quốc cũng đã áp lực BP rằng nếu tiếp tục dò tìm dầu hỏa theo giao kèo với Việt Nam, Trung quốc sẽ không ký một giao kèo làm ăn nào với BP tại Trung quốc trong tương lai. Trước áp lực, công ty BP đã ngưng các cuộc dò tìm.

Chính sách của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đã im lặng trước các động thái dọ dẫm của Trung quốc. Có một vài nhà ngoại giao (trong đó có ông Stephen Young) cho rằng Hoa Kỳ với chính quyền Obama đang lúng túng và chưa có chính sách về Đông Á. Tôi không đồng ý với cách nhìn này . Chừng nào còn ông Robert Gates ở bộ quốc phòng chừng đó vấn đề Đông á Thái Bình Dương còn được quan tâm thích đáng. Ông Gates nguyên là giám đốc cơ quan tình báo Hoa Kỳ ông biết rõ sự quan trọng của vùng Á châu, Thái Bình Dương đối với nền an ninh của Hoa Kỳ.

Và sự việc Hoa Kỳ quan tâm đến chính sách của Việt Nam (đối với Trung quốc và Hoa Kỳ) là một dấu hiệu quan tâm khác.

Một cách âm thầm Hoa Kỳ tìm cách thuyết phục Việt Nam về mối nguy của Trung quốc, và hình như đã thành công phần nào về mặt này. Bản thông cáo chung sau chuyến thăm viếng của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Hoa Kỳ cuối tháng 6/2008 vừa qua chứa đựng một số ngôn từ làm giới quan sát quốc tế ngạc nhiên.

Bản thông cáo ghi nhận Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ “trao đổi việc mở rộng và tăng cường đối thoại giữa các quan chức cao cấp của hai nước. …. sẽ ủng hộ việc lập cơ chế đối thoại mới về chính trị-quốc phòng và chính sách nhằm tăng cường sự trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh”.

Sau cùng Hoa Kỳ “tái khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ đối với chủ quyền quốc gia, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.”

Thực tế trước mắt của Việt Nam

Trung quốc đã ấn định mục tiêu là làm chủ Biển Đông và đang thực hiện mục tiêu này bằng thái độ “bàn tay sắt bọc nhung”. Nhưng nếu bàn tay bọc nhung không hiệu quả Trung quốc dùng bàn tay sắt thì chưa biết cục diện sẽ biến chuyển như thế nào?

Đặt vấn đề như vậy để chúng ta thấy sự quan trọng của Việt Nam trên bàn cờ Đông Á tương lai.

Việt Nam nằm ngay trên chiến trường nhỏ là chiến trường Đông Nam Á vậy chính sách nào để Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập? Trong thế kỷ trước mắt Việt Nam không có con đường nào khác hơn là liên kết với các quốc gia trong vùng, nhưng quan trọng hơn hết là liên kết với Trung quốc và Hoa Kỳ. Cả hai khối thế lực này đều cần Việt Nam để chuẩn bị cho nước cờ của mình.

Nhưng muốn có chính sách trước hết cần hai điều kiện rút ra từ bài học của cuộc chiến vừa qua. Thứ nhất Việt Nam phải có khả năng tự lực trong khung cảnh mới của thế giới. Tự lực đây không phải là chỉ có đầy đủ lương thực để có thể ăn no mặc ấm mà phải có tiềm năng kỹ nghệ và sản xuất.

Thứ hai là phải có người lãnh đạo giỏi. Vì thiếu bản lãnh chúng ta đã để cuộc tranh chấp ý thức hệ trên thế giới thành một cuộc nội chiến tương tàn.

Dùng thế liên kết Trung quốc và Hoa Kỳ để trước hết bảo vệ lãnh thổ và bảo tồn nền độc lập dân tộc, bảo vệ quặng mõ và túi dầu dưới đáy biển của chúng ta, và để tồn tại như một quốc gia độc lập.

Hiện nay các dấu hiệu đều cho thấy Việt Nam hình như quá nhu nhược đối với Trung quốc . Đụng chạm quyền lợi với Trung quốc ở đâu cũng chỉ thấy Việt Nam nhượng bộ: nhượng bộ trên đất liền, nhượng bộ trên biển cả. Tàu hải quân Trung quốc bắn và bắt ngư dân Việt Nam Hà nội không mạnh mẽ lên tiếng bênh vực ngư dân. Khi Trung quốc thành lập quận huyện bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Việt Nam do dự không dám đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An để kiện và lại ngăn cản nhân dân biểu tình phản đối.

Hiện nay chỉ còn còn căn cứ Cam Ranh chưa lọt vào tay Trung quốc là dấu hiệu Việt Nam chưa hoàn toàn lọt vào quỹ đạo Trung quốc. Nếu Cam Ranh lọt vào tay của Trung quốc có lẽ lúc đó không còn gì để bàn luận nữa .

Kết luận:

Thế kỷ 21 sẽ là một thế kỷ căng thẳng trong đó hai đối thủ chính sẽ là Hoa Kỳ và Trung quốc.

Và điểm nóng sẽ là Biển Đông và rộng hơn là vùng Tây Thái Bình Dương.

Có đi đến chiến tranh không ? Đây là một câu hỏi để mở vì không có một lý thuyết tiền lệ nào để kết luận có “hòa hay chiến”. Các trận chiến tranh lớn trên thế giới từ xưa đến nay dù trận chiến tranh nào cũng có nguyên nhân đối kháng nhưng nó xẩy ra đều do tình cờ và khó đoán trước.

Trong thời gian chiến tranh lạnh Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết có ít nhất là hai lần suýt đánh nhau mở đầu cho thế chiến III (một lần do Nga phong tỏa thành phố Berlin (1948), và một lần Nga đặt hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba (1962) nhưng đều tránh được. Có thể là do hai nước đều có vũ khí nguyên tử có thể hủy diệt lẫn nhau.

Đó cũng có thể là điều kiện làm cho sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung quốc không biến thành chiến tranh.

Nhưng không ai có thể quả quyết sẽ không có chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong tương lai. Một bên Hoa Kỳ lo bảo vệ quyền lợi của mình trên thế giới, một bên Trung quốc có nhu cầu bảo đảm an ninh và bành trướng thế lực.

Và nếu đứng trước một khúc quanh nào đó Trung quốc quyết định chiếm Trường Sa và biển Đông trong đó có căn cứ Cam Ranh bằng vũ lực, Hoa Kỳ có ngồi yên không?

Không ai có thể trả lời những câu hỏi trên.

Bàn về những “chiêu bài mị dân”

--------------------------------------------------------------------------------
Chính trị - xã hội
Song Chi, talawas
17.10.2007
Để giữ vững vị trí độc tôn lãnh đạo, để tiếp tục ru ngủ số đông người dân khờ khạo đồng thời dẹp yên những mầm mống tư tưởng hoài nghi, bất phục và đối kháng trong một thiểu số “cứng đầu”, những nhà nước chuyên chế độc tài luôn luôn phải có những “chiêu bài mị dân” của họ. Ví dụ, với nhà nước Trung Quốc hiện nay, người ta thấy rất rõ những chiêu bài đó là sự phát triển kinh tế và niềm tự hào, tự tôn về dân tộc. Chính những thành tích về phát triển kinh tế, sự lớn mạnh về khả năng quân sự quốc phòng, viễn cảnh về một siêu cường quốc trong tương lai… của Trung Quốc chắc chắn đã tạo nên trong lòng đa số dân chúng của họ một cảm giác bằng lòng và tự hào để tạm quên đi khát vọng về tự do dân chủ, nhân quyền được tôn trọng cũng như sự bức xúc trước muôn vàn bất công, phi lý, những điều tồi tệ trong xã hội. Và hai “lá bài” này phải nói là mạnh, bởi vì với đà phát triển kinh tế như hiện nay, với vị thế của một đất nước khổng lồ trên một tỷ dân và với một tham vọng bành trướng, bá quyền đã có “truyền thống” từ xưa, Đảng và Nhà nước cộng sản Trung Quốc có thể yên tâm mà tại vị khá lâu nữa, nếu như không có bất cứ một khúc ngoặt bất ngờ nào đó của thời cuộc.

Học theo đàn anh, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cũng có những “chiêu bài mị dân” riêng của mình. Trước đây những “chiêu bài” quen thuộc được sử dụng bao nhiêu năm là thành tích về “sự chiến thắng vĩ đại của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước” và huyền thoại về vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Cho đến giờ phút này, những điều này vẫn thường xuyên được lặp đi lặp lại từ trên các phương tiện truyền thông của nhà nước cho đến chương trình giáo khoa suốt 12 năm trung học và cả bậc đại học. Thậm chí, sợ người dân xao lãng, nhà nước còn phát động rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân những cuộc học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất là quy mô và tốn kém, bắt cả sư thầy ni cô trong các nhà chùa cũng phải học!

Từ khi thực hiện chính sách “mở cửa” về kinh tế, chính quyền chuyển sang khuyến khích người dân lao vào kiếm tiền, làm giàu bằng đủ mọi cách và sử dụng lá bài “ổn định chính trị, phát triển kinh tế” để người dân quên đi những nhu cầu khác cũng như những câu hỏi lớn khác về đời sống xã hội chính trị của đất nước. Đối lập với sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, một lập luận thường xuyên được những người cầm quyền đưa ra để “hù doạ” nhân dân đó là mọi sự đa đảng, đa nguyên sẽ chỉ dẫn đến sự xáo trộn, rối loạn về chính trị, xã hội và cả kinh tế, lý do là bởi vì trình độ dân trí Việt Nam còn thấp nên mô hình độc đảng với sự lãnh đạo của Đảng CSVN như lâu nay là đúng đắn, tối ưu.

Phải nói là có không ít người dân, nếu không đọc thêm các nguồn thông tin khác hoặc có thêm những trải nghiệm cá nhân về những môi trường sống khác trong những thể chế chính trị xã hội khác, đã tin hoặc tạm bằng lòng với những lý luận như vậy.

Những người cầm quyền đã lừa mị nhân dân của họ với khái niệm về sự ổn định. Tuy nhiên, một xã hội gọi là ổn định về chính trị do được cai trị bởi bàn tay sắt của một thể chế chính trị độc tài, độc đảng không có nghĩa là ổn định về kinh tế và xã hội. Bên dưới cái bề mặt có vẻ ổn định về chính trị, một xã hội được điều hành theo cơ chế “đảng trị” bởi một đảng duy nhất thâu tóm mọi quyền lực trong tay như ở Trung Quốc và Việt Nam luôn luôn chất chứa những mâu thuẫn, nghịch lý do không có sự cạnh tranh, san sẻ, khống chế và kiểm soát lẫn nhau trong quyền lực chính trị và điều hành đất nước, không có một nền luật pháp rõ ràng, minh bạch để điều chỉnh mọi sự sai lệch trong phát triển xã hội cũng như phát triển kinh tế. Chưa kể chính cái thể chế chính trị độc tài độc đảng đã tạo điều kiện cho bao nhiêu bất công, phi lý, những vấn nạn xã hội tồn tại và sinh sôi nảy nở không sao giải quyết nổi như nạn tham nhũng, hối lộ, tệ cửa quyền, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn, bản thân người dân thì không có tự do dân chủ và nhân quyền thì bị chà đạp… Còn trong phát triển kinh tế, sự thiếu vắng một nên luật pháp minh bạch và sự cạnh tranh sòng phằng cũng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó có nhiều bất ổn, rủi ro. Tất cả những điều đó sẽ tạo nên những mâu thuẫn từ trong bản chất chế độ, như những đợt sóng ngầm âm ỉ chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là trào lên phá vỡ sự ổn định bề mặt kia bất cứ lúc nào.

Cũng như nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn đem những thành tích tăng trưởng về kinh tế và sự thay đổi trên bề mặt xã hội để xoa dịu nhân dân và biện minh cho sự thống trị của Đảng.

Trong khi đó, bị nỗi ám ảnh về cái đói cái nghèo của thời bao cấp, cả xã hội Việt Nam ngày nay đang lao vào kiếm tiền, và không ít người dân tự an ủi rằng so với thời bao cấp chưa xa thì cuộc sống bây giờ đã dễ thở hơn, còn nếu so với cái thời miền Bắc trước năm 1975 thì rõ ràng một trời một vực rồi.

Nhung như đã nói, phát triển kinh tế chỉ mới là một phần trong việc chứng tỏ xã hội đó đang đi lên theo chiều huớng tích cực, còn bao nhiêu vấn đề khác: khoảng cách giàu-nghèo và sự bất công quá lớn trong xã hội, tài nguyên của đất nước bị khai thác đến cạn kiệt, thiên nhiên bị tàn phá không thương tiếc, môi truờng sống bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng cuộc sống của đa số người dân chưa đuợc cải thiện tận gốc và chế độ an sinh xã hội chưa đuợc quan tâm đến, chưa kể là sự xuống cấp, tha hóa về đạo đức xã hội, mọi giá trị đều bị lệch chuẩn… Như thế là một xã hội đang phát triển một cách phi nhân tính và lệch lạc, chệch hướng so với con đuờng phải đi là xã hội phải ngày một văn minh, con nguời ngày một tự do, tự chủ, đuợc coi trọng và hạnh phúc hơn!

Thế nào là một xã hội phát triển lành mạnh, nhân bản, đúng hướng?

Khi mà trong xã hội đó tất cả mọi mục tiêu hướng tới đều phải vì con người, đặt sự tự do hạnh phúc của con người lên trên hết.

Khi mà trong xã hội đó mọi người dân có quyền đi bầu chọn những người xứng đáng nhất lên điều hành đất nước và có quyền lên tiếng phê phán kêu gọi những người này phải từ bỏ chức vụ nếu họ bất tài, thất đức hoặc có những hành vi sai trái làm hại cho đất nước, cho nhân dân. Người dân có quyền lên tiếng bày tỏ chính kiến, quan điểm chính trị xã hội của mình một cách ôn hoà, có quyền phê bình, phản biện mọi chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước mà không bị chụp mũ phản động, phản quốc, bị gây khó dễ thậm chí bị bắt bớ, cầm tù.

Khi mà trong xã hội đó người dân biết rằng nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra họ có thể trông cậy vào luật pháp, luật pháp sẽ bảo vệ họ, nhà nước sẽ bảo vệ họ nếu họ đúng, nếu họ bị những kẻ côn đồ hành hung hoặc những kẻ lạ mang danh nước láng giềng anh em đánh cướp, bắt giữ…

Khi mà trong xã hội đó con người từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi luôn luôn cảm thấy an tâm rằng nếu họ lương thiện, đi làm và đóng thuế đầy đủ cho nhà nước thì ngược lại, khi cần họ có thể trông cậy vào sự hỗ trợ của nhà nước như lúc thất nghiệp, khi đau yếu lúc già cả không nơi nương tựa… Và do đó họ có thể sống một cuộc đời nhẹ nhàng ít lo nghĩ, không phải bon chen giành giật mọi cơ hội, chỉ biết chăm chăm thu vén cho cá nhân mình vì khi có việc gì xảy ra không biết trông vào đâu.

Khi mà trong xã hội đó người dân tin rằng đồng tiền đóng thuế từ bao mồ hôi công sức của họ được nhà nước sử dụng một cách hợp lý, công khai và minh bạch.

Mọi người dân đều được tạo điều kiện tốt nhất để học hành và khi đến trường những đứa trẻ không phải học những kiến thức vô bổ, những điều dối trá mà ngay người thầy dạy chúng cũng không tin và bản thân chúng cũng biết như vậy.

Mọi người dân đều có những cơ hội như nhau để thành đạt và bằng cấp, tước vị, chỗ làm đều không thể mua mà có.

Khi mà trong xã hội đó người dân không phải chịu những tai hoạ, những cái chết oan uống có thể đến từ bất cứ đâu, từ bất cứ lý do nào do sự vô trách nhiệm, làm ăn gian dối của người khác như cầu gãy, nhà sập, điện giật trên đường hố ga sụp dưới chân hay sữa nhiễm độc, phở ướp phóoc-môn…

Khi mà trong xã hội đó sự vất vả của người nông dân công nhân được đền bù xứng đáng, tiếng nói của người trí thức được coi trọng, tài năng của người nghệ sĩ được phát triển tối đa trong sự tự do không ai cấm đoán…

Khi mà trong xã hội đó báo chí được quyền nói lên sự thật, được quyền đứng về phía lẽ phải, đứng về phía nhân dân và những giọt nước mắt.

Mọi lời nói phải cũng như mọi tiếng kêu oan không lọt thỏm vào sự im lặng.

Khi mà trong xã hội đó con người không có quá nhiều nỗi lo, cho dù những nỗi lo có lý hay vô lý. Khi con người không có quá nhiều nỗi sợ, và mọi nỗi sợ đều do chính quyền tạo ra.

Khi cái tốt, cái thiện, điều tử tế không phải là điểu hiếm hoi hay bất bình thường và cái xấu, cái ác, điều không tử tế lại tràn ngập khắp nơi và trờ thành bình thường.

Khi con người không vô cảm trước mọi điều tồi tệ đang xảy ra hàng ngày, không cúi đầu bạc nhược trước cường quyền, biết đau đớn trước vận mệnh của đất nước và của dân tộc.

Khi mà trong xã hội đó mọi người biết xấu hổ, kẻ làm quan biết đến đến hai chữ xin lỗi – xin lỗi nhân dân, xin lỗi lịch sử và biềt đến văn hoá từ chức. Khi lòng yêu nước không bị kết tội còn kẻ xu nịnh, phản quốc lại được tôn vinh.

Chỉ khi đó xã hội ấy mới là một xã hội đang phát triển đúng hướng, lành mạnh, và nhân bản.

Còn nếu không, đừng nói với nhân dân tôi về độc lập, tự do và hạnh phúc, về công lao của Đảng, về chủ nghĩa Mác – Lê Nin bách chiến bách thắng và tư tưởng của Hồ Chí Minh vĩ đại.

Đừng nói với nhân dân tôi muôn vàn những khái niệm, lý luận, những mỹ từ sáo rỗng…

Bởi vì, khi không đem lại được độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân sau hơn sáu mươi năm điều hành đất nước, còn có lý do gì để Đảng cầm quyền đó tiếp tục tại vị?

Nguồn: talawas

samedi 17 octobre 2009

Từ dự án Bauxite Tây Nguyên...

Tiếp tục tiếng nói của thế hệ trẻ:
Từ dự án Bauxite Tây Nguyên, phản tỉnh về chủ nghĩa xã hộI
Việt Thắng

Bài này được đăng lúc 06:13 ngày Thứ Sáu, 16/10/2009

http://bauxitevietnam.info/c/13821.html

Dưới thời nửa thực dân, nửa phong kiến, con người ta bị bóc lột và mất độc lập, mất tự do. Không những đói khổ hành hạ dân thường, mà cả nỗi nhục mất nước nữa. Đảng CSVN đã thành công trong việc tập hợp quần chúng lại tổ chức đấu tranh. Và chính tình yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc đã thôi thúc họ đi theo Đảng CSVN. Từ “Đảng” được phát âm đầy thân yêu, thân yêu một cách chân thực chứ không theo “phong trào”, bởi đó là hy vọng, là chỗ chở che cho những con người mất nước, không cơm áo. Người ta có thể bị tra tấn hay mang ra xử bắn mà vẫn hô to: “Đảng CSVN muôn năm!”. Vô hình trung, họ đã chọn CNXH cho đất nước mà không ý thức được mô hình XHCN như thế nào. Họ chỉ tưởng tượng rất mơ hồ rằng diệt được thằng Pháp rồi, xây dựng chính quyền XHCN thì hạnh phúc cho nhân dân sẽ đến. Trên thế giới, cuộc khủng hoảng 1929-1933 cũng như tội ác thực dân khiến thế giới lên án chủ nghĩa tư bản. Rất nhiều trí thức lớn của Tây Âu đi theo cộng sản như P. Picasso, J. P. Sartre, A. Gide, L. Aragon, A. Koestler, v.v. dù về sau không phải ai cũng trung thành với chủ nghĩa này.

Trên cơ sở đó, sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám làm Đảng CSVN có một nền móng vững chắc trong lòng người dân: “Đảng đã giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích nô lệ”. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ càng củng cố niềm tin của người dân vào Đảng CSVN và CNXH. Hàng núi bom đạn của Mỹ trút xuống miền Bắc phá hoại cơ sở vật chất, gây ra những vụ thảm sát nhưng vô tình lại khiến lòng tin của nhân dân vào Đảng CSVN và CNXH thêm vững chắc hơn: bọn tư bản nó xâm chiếm nước ta, nó bắn giết dân ta. Người ta chửi kẻ ngoại xâm là “bọn tư bản”. Sách vở do Liên Xô viện trợ cũng đầy ắp cụm từ “bọn tư bản”. Nhân dân hết lòng với Đảng CSVN trong công cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất, vô hình trung chấp nhận CNXH. Thời ấy đã nhan nhản “quan cách mạng” nhưng con người ta vì đói khổ, vì nỗi đau chiến tranh nên chưa có thời gian mà bất mãn. Thậm chí ngay cả thế giới, vì lên án tính vô lương tâm của Cuộc chiến Việt Nam cũng phủ nhận luôn mô hình thị trường tự do của Mỹ. Chủ nghĩa tư bản gây ra chiến tranh! Tội ác của Stalin và Mao vẫn chưa được phanh phui. Tây Âu choáng váng vì các kế hoạch 5 năm thành công rực rỡ của Stalin. Mao là anh hùng, không những ở phương Đông mà cả ở phương Tây. Andy Warhol đã vẽ chân dung Mao theo phong cách rất “thời thượng”, còn ở Việt Nam người dân treo ảnh Mao! Sự nghi ngờ CNXH là không thể có, và hoàn toàn dễ hiểu khi bị quy kết là “chống phá cách mạng”. Đối lập của “Việt cộng” là “Việt gian”, chứ không chỉ là “Việt phi cộng”. Thắng lợi 30/04/1975 không những làm Đảng CSVN có một vị thế vững chắc tuyệt đối trong nước mà trên thế giới, nó được coi là một thắng lợi của CNXH đối với CNTB.

Con ngỗng mới nở cho là động vật nào đầu tiên nó nhìn thấy là mẹ nó và đi theo. Có lẽ người Việt Nam cũng vậy: lóp ngóp từ dân thuộc địa thành dân một nước độc lập có tên trên bản đồ thế giới, từ chỗ đất nước bị chia cắt được hưởng thống nhất, do vậy chúng ta kiên quyết đi theo CNXH mà không cần biết vì sao. Hơn 60 năm qua chúng ta là một đàn ngỗng!

Còn một lý do nữa khiến người Việt Nam trung thành với Đảng CSVN và hoảng sợ khi nghi ngờ CNXH. Đó là di sản tinh thần của phong kiến. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trên quảng trường Ba Đình trước hàng trăm nghìn người, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ đấy, nhưng chỉ là về mặt hành chính thôi, tức là người Việt đã có một chính quyền của chính người Việt, có một đất nước của riêng mình. Còn tư tưởng con người, thì vẫn là sản phẩm của phong kiến và chưa được “cách mạng”. Thời phong kiến người ta phải trung với vua, với triều đình vô điều kiện, tức là dù họ có thối nát, chống lại họ cũng là phản quốc, và những người đứng lên khởi nghĩa cũng phải cân nhắc rất nhiều về mặt lương tâm; cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy không cãi, tính phục tùng được coi trọng hơn sự phản biện và sáng tạo (tình cờ cháu lại nhớ đến Quyết định 97). Môi trường ấy là mảnh đất thích hợp cho cái mô hình vay mượn từ Liên Xô, vốn đàn áp con người và đắc lực tuyên truyền cho nhà nước. Trách Tố Hữu một, vì viết những vần thơ “cổ động”, thơ mà chả thơ, thì trách những người vì thích nịnh mà trọng dụng Tố Hữu mười. Trong một xã hội đặt nặng hiệu quả, sự phản biện mang tính xây dựng được đánh giá cao và không có chỗ cho sự xu nịnh. Phải chăng đó cũng là một di sản phong kiến? Ngay cả khi những người làm cách mạng mà vẫn chưa được “cách mạng”, thì làm sao có “cách mạng”? Trong khi ấy người ta đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm. Than ôi, ta làm cách mạng tư tưởng, không phải bằng Plato hay Voltaire, mà bằng thơ Tố Hữu!

Plato cho rằng: muốn thay đổi xã hội trước tiên hãy thay đổi con người; khi con người thay đổi thì xã hội sẽ thay đổi, chừng nào con người chưa thay đổi thì đừng mong xã hội thay đổi; bởi vậy, không phải vô tình mà người ta nói ta đang sống thời “phong kiến mới”: cái “danh” thì đã khác đấy: cán bộ, chính phủ, chứ không còn vua quan, triều đình nữa; nhưng cái “tính” thì vẫn thế: vẫn còn đấy những áp bức, bất công, bóc lột, tham ô, nghèo đói, dốt nát, oan sai, lệ thuộc ngoại bang.

Thật ngạc nhiên: khối Đông Âu xưa có hoàn cảnh kinh tế khá hơn hẳn các nước XHCN châu Á, và về số lượng cũng nhiều hơn hẳn, thế mà bây giờ sụp đổ hết, trong khi giờ đây CNXH ở Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên thì vẫn “vững chắc”. Có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong số đó là do di sản tinh thần thời phong kiến khiến người ta dễ bảo và lương tâm không cho phép họ “phản bội vua”?

Trong khi đó người phương Tây độc lập hơn trong suy nghĩ và có dân trí cao hơn nên “cứng đầu” hơn. Dưới thời XHCN vẫn có những làn sóng đấu tranh lớn ở Đông Âu (điều này chú Huy Đức-Osin đã nói nhiều trong bài Bức tường Berlin), ở châu Á, trừ sự kiện Thiên An Môn, hình như chưa hề có những phong trào đấu tranh giống như vậy. Thử so sánh: “Sau khi Stalin chết, hơn 1 triệu người dân Đông Đức đã xuống đường biểu tình” (blog Osin), còn cũng lúc ấy bên mình Tố Hữu khóc, hay đúng hơn là tận dụng để làm công tác tuyên truyền: “Yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi Stalin [...] Thương cha thương mẹ thương chồng/Thương mình thương một thương ông thương mười”.

Nhưng rồi cùng với thời gian, khi bão táp chiến tranh đã lùi dần về quá khứ, nhân dân cũng có thời gian nghiền ngẫm sự bất mãn của mình: tham ô hủ hóa, quan liêu bao cấp. Những ký ức về thời cải cách ruộng đất, tội ác của Stalin và Mao khiến con người nhận ra: ngay cả trong một xã hội XHCN con người vẫn có thể bị chà đạp một cách ngang nhiên và man rợ. Cuộc chiến 1979 khiến con người ta hiểu rằng người ta có thể cùng là “XHCN” mà vẫn không nhất thiết phải là “anh em”. Tiếp đó là sự sụp đổ của khối Đông Âu. Phong trào cộng sản ở các nước Tây Âu cũng trở thành quá khứ. Hơn 30 năm sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam vẫn còn nghèo khổ lạc hậu. Tham nhũng tràn lan mà người miền Nam cho là còn hơn cả thời Mỹ Diệm. Hệ thống giáo dục nặng nề, vô lý và không hiệu quả. Người ta có thể biện minh: chẳng phải xã hội đã thay đổi đó sao? Sao chỉ nhìn vào cái chưa đạt được mà phủ nhận cái đã đạt được? Câu trả lời là những thay đổi đó còn quá bé so với trí lực của người Việt Nam. Chẳng lẽ công lao của nhân dân trong hơn 30 năm chỉ là số không? Và nếu ai viện dẫn những “thành tựu trong công cuộc đổi mới” theo kiểu “Đảng đã mang đến ánh sáng, mang đến cái chữ cho buôn làng” thì là mị dân.

Dù vậy, từ sau sự kiện 30/04/1975, nhân dân Việt Nam vẫn một lòng trung thành với Đảng CSVN, dù đói khổ, dù bất mãn. Người Việt Nam quá kiệt quệ vì chiến tranh và đành hài lòng với hòa bình, độc lập. Vị thế của Đảng CSVN là độc tôn, không những cả về mặt hành chính mà cả ở trong lòng người dân. Chính vì nỗi sợ chiến tranh và mất độc lập, chứ không phải vì lý trí, mà người Việt Nam bám chắc vào Đảng CSVN.

Bởi vậy, sự thay đổi về chính trị là một canh bạc: có thể Việt Nam sẽ tốt hơn, nhưng cũng có thể Việt Nam sẽ hỗn loạn và rơi vào nội chiến hoặc ngoại xâm? Và nhiều người thà chọn độc lập và hòa bình dù không có tự do, còn hơn mang tất cả đặt vào một canh bạc.

Nhưng sự kiện bauxite Tây Nguyên khiến cháu có một cái nhìn khác hẳn: với hoàn cảnh Việt Nam, nếu có độc lập mà không có tự do thì nền độc lập ấy cũng rất dễ bị lung lay. Nói ví von là dự án bauxite Tây Nguyên đã đánh trúng cái huyệt “Tây Nguyên” của tâm hồn cháu, tức nỗi sợ chiến tranh và cảnh nô lệ. Lenin đã nói rất đúng: không ai diệt được cộng sản, trừ chính họ. Nhà nước Việt Nam đã dùng tường lửa để ngăn những website chỉ trích họ và CNXH, phạt rất nặng những người bất đồng chính kiến, nhưng chính dự án bauxite Tây Nguyên của Nhà nước mới thực sự giáng một cú mạnh vào lòng tin của cháu vào CNXH.

Vì sao? Vì khi quyền lực bị tập trung vào một số ít cá nhân, không có tự do báo chí và ngôn luận, thì lúc ấy vận mệnh đất nước, nhân dân đúng là được đặt vào một canh bạc. Chưa nói giả sử các cá nhân đó không đủ tài đức, thậm chí bị ngoại bang mua chuộc, mà ngay cả trường hợp họ là những người đủ tài đức, thì không phải không có khi sai lầm. Nhưng xã hội không thể chỉnh sửa các sai lầm đó với một giá thấp vì người dân bị tước quyền phản biện và tự do ngôn luận.

Thật mỉa mai, người ta nói: “Cải cách ruộng đất, chúng tôi đã viết trong lịch sử, coi đó là một trong những sai lầm. Và Đảng đã có kiểm điểm, công khai tự phê bình trước dân chúng ngay từ năm 1956. Sau đó đã tiến hành sửa sai và trong lịch sử đảng chúng tôi đã ghi rõ, không có gì giấu giếm, úp mở” (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/09/090902_communist_party_comment.shtml). Nhưng ngay sau đấy (sau 1956) người ta lại gây ra Nhân Văn Giai Phẩm! Còn “sửa sai” đến bao giờ nữa hở giời? Bauxite Tây Nguyên thật ra chỉ là một sự “tiếp bước truyền thống cha anh” Cải cách ruộng đất, đánh Nhân Văn Giai Phẩm mà thôi. Đó là khi quyền lực bị tập trung và sử dụng một cách thô bạo, sai lầm. Nhưng nếu như Cải cách ruộng đất chỉ là đại họa cho giới địa chủ cũ, Nhân Văn Giai Phẩm tàn phá đời sống văn nghệ, thì chúng ta có chứng cứ để tin rằng, Bauxite Tây Nguyên là một mối nguy cho môi trường sinh thái, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sự sống còn của dân tộc Việt Nam. Lúc ấy có “kiểm điểm, tự phê bình, sửa sai” thì sự cũng đã rồi, chẳng còn ý nghĩa.

Thiếu vắng dân chủ ở Việt Nam tai hại hơn ở Trung Quốc. Cháu cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc giống nhau ở chỗ cùng là Á Đông, cùng theo CNXH, cùng thuộc khối Khổng học, nhưng đó là bề ngoài. Bên trong có những khác biệt mang tính quyết định: Trung Quốc đất rộng người đông, ngân sách lớn, dân trí của bộ phận tinh hoa rất cao, không có những ông hàng xóm ưa chiếm đất như họ, lại có vũ khí nguyên tử, có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, là cường quốc, nên tuy một sai lầm của nhà nước sẽ gây họa cho rất nhiều người trong nước nhưng nhìn chung khó mà gây ra cảnh ngoại xâm hay hủy diệt giống nòi. Việt Nam nghèo và nhỏ, luôn bị họ coi là một phần đất đã bị mất, lại có vị trí địa lý rất tốt cho họ làm bàn đạp xâm chiếm Đông Nam Á và có gót chân Achilles là Tây Nguyên, chưa kể đến “ân oán” ngày xưa với Mỹ. Một sai lầm của nhà nước cũng có thể gây ra cảnh nước mất nhà tan. Vậy nên ai xem hoàn cảnh của Việt Nam và Trung Quốc là “có nhiều điểm tương đồng” thì quá hời hợt.

Bác Dương Trung Quốc đã phát biểu tại một phiên họp Quốc hội, “Bài học lịch sử cho thấy, chỉ một sai sót của Chính phủ, dân tộc phải chịu đựng hậu quả lâu dài”. Cháu nghĩ càng tập quyền thì xác suất có những sai sót không những chết người mà chết cả dân tộc, càng cao hơn.

Ngoài ra, người ta không thể lấy sự thành công về kinh tế của Trung Quốc để bào chữa cho sự thiếu hụt dân chủ và tự do ngôn luận. Như cháu đã nói, khi quyền lực bị tập trung thì vận mệnh nhân dân như được đặt lên một canh bạc: Mao lên, dân khổ; Đặng lên, dân sướng (tạm gọi là thế). Và tình hình dân chủ ở Trung Quốc có lẽ sẽ đẻ ra các Mao mới, các Giang Thanh mới để thực hiện những Văn Cách mới.

May mà trời vẫn thương dân tộc Việt vì nhờ có công nghệ thông tin, có những người tâm huyết nên mới có phong trào phản đối dự án bauxite Tây Nguyên. Nhưng cháu bàng hoàng khi đặt ra giả thiết: nếu dự án này được triển khai cách đây mười năm thôi, khi internet vẫn còn hoàn toàn xa lạ với người dân, và nếu tướng Giáp không thọ được đến thời điểm đó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Phong trào sẽ lẻ tẻ vài người, không ai lắng nghe và ngay lập tức “âm mưu chống phá sự nghiệp đổi mới” này bị dập tắt bằng bạo tàn. Mọi người sẽ linh đình ăn mừng sự đổi thay của Tây Nguyên, đỉnh cao mới của quan hệ Việt-Trung và giờ đây….(kinh khủng quá, cháu không dám tưởng tượng nữa).

Ngay cả khi phong trào phản đối dự án bauxite này thành công (và nhất định sẽ thế) thì cháu vẫn không xem đó là một chiến thắng hoàn toàn, mà chỉ như mới tránh được một tảng đá ngầm thôi. Cả đời cháu, chừng nào quyền lực còn bị tập trung vào một số ít cá nhân và không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, cháu sẽ còn bị ám ảnh bởi những tảng đá ngầm mới. Khi những người lái tàu hoặc đui mù, hoặc bị mua chuộc, mà hành khách không có quyền lên tiếng, thì việc con tàu Việt Nam đâm phải một tảng đá ngầm nào đó là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra.

Khi nói lên điều này, cháu có “đi ngược lại quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước, đi ngược lại lý tưởng người dân đã lựa chọn” không? Có “vi phạm điều 88 bộ Luật Hình sự, tuyên truyền, chống phá Nhà nước XHCN” không?

Cháu không biết, nhưng cháu biết một điều: chính cháu cũng là một người dân, và cháu đang rất trung thực, trung thực không những với các bác và các độc giả, mà hơn nữa là trung thực với chính bản thân mình, một điều mà trong một thời gian dài cháu thậm chí còn không dám. Và nói ra những gì mình nghĩ làm cháu nhẹ nhõm. Cháu không đủ gan để tham gia đảng phái nào và người tiểu tốt vô danh như cháu còn lâu mới “có sự ủy nhiệm của giới sử gia xét lại của Mỹ”. Cháu chỉ là một người dân và thật với lòng mình. Khi một người dân chỉ vì nói thẳng nói thật mà hóa ra phạm pháp thì phải chăng chính pháp luật chứ không phải người dân ấy có tội?

Cháu đồng ý với Protagoras, người cho rằng: con người là thước đo của vạn vật, tức là bản thân sự vật chả đúng chả sai, nếu có đúng hay sai chẳng qua là do con người gán cho mà ra. Hồi xưa người ta bắn bỏ những nhà tư sản vì cho là phản động, là mối nguy cho đất nước. Nay thì thời thế đã khác. Doanh nhân thành đạt rất được trọng vọng.

Nhưng cháu cũng đồng ý với Socrates, người cho rằng: có những giá trị là vĩnh cửu và không thể thay đổi theo thời gian cũng như không gian. Bởi cháu tin rằng: ĐỘC LẬP-TỰ DO-HẠNH PHÚC mới là lẽ sống đích thực của loài người cho tới mãi mãi, mới là mục đích cuối cùng của mọi cuộc cách mạng. Mọi cái đưa chúng ta trật khỏi quỹ đạo ấy cần bị loại bỏ.

VT

HD Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

Bọn phản quốc xử Người yêu nước !

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 85 (15-10-2009)

http://tudongonluan.atspace.com

Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đang trên đường viếng Trung Hoa từ ngày 15 đến 17 tháng 10 này. Ông ta sẽ gặp Thủ tướng Trung cộng là Ôn Gia Bảo tại tỉnh Tứ Xuyên, khi tới dự Hội chợ triển lãm quốc tế miền Tây lần thứ 10 tại Thành Ðô thủ phủ. Đây thực chất là cuộc bái yết và triều cống quan thầy Trung cộng, bởi lẽ trong dịp này, Hà Nội sẽ trao đổi về việc hai bên ký kết các văn kiện quan trọng nhằm hoàn tất quá trình xác định đường biên giới trên đất liền, để Việt Nam vĩnh viễn dâng tiến cho Trung Hoa nhiều mảnh đất của tiên tổ hầu đền bù việc Trung cộng đã cưu mang giúp đỡ Việt cộng trong cuộc xâm chiếm miền Nam trước đây cũng như tạ ơn việc Bắc Kinh nay đổ ra khoảng 50 tỷ đô-la cứu nguy nguy nền kinh tế và tài chánh VN trên bờ vực thẳm.

Chưa hết, trong hành lý của Nguyễn Tấn Dũng còn vô số món quà kính biếu Đại ca nữa. Đó là những cuộc xử lý và xử án nhiều vụ việc có liên quan đến Trung cộng mà thời gian gần đây, cả quốc nội lẫn hải ngoại và quốc tế không ngớt bàn tán với sự kinh ngạc và lòng công phẫn.

Xa nhất và cũng gần nhất là vụ xử lý Hoàng thành Thăng Long. Theo tin của SBTN ngày 14-10, bất chấp nhiều ý kiến phản đối của giới chuyên gia và trí thức trong lẫn ngoài nước, nhà cầm quyền CSVN nhất quyết xây tòa nhà Quốc hội mới đè lên quần thể di tích lịch sử văn hóa quan trọng và ý nghĩa nhất của Việt Nam là Hoàng thành Thăng Long, công trình của triều Lý và triều Trần, hai triều đại mà Trung Quốc coi là kẻ thù số một. Ba ngày sau khi ký quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà Quốc hội (vốn đã được chuẩn bị từ năm 2002), hôm 13-10-2009, Nguyễn Tấn Dũng đã phát lệnh khởi sự công trình (ước tính khoảng 268 triệu mỹ kim) và bổ nhiệm Hoàng Trung Hải là Phó Thủ tướng làm trưởng ban xây dựng. Đây là việc xử lý dứt điểm không những đối với giới chuyên viên khoa học lịch sử và giới tướng lãnh quân đội có lòng yêu nước, mà còn cả đối với hai triều đại ái quốc từng chống Trung Hoa để bảo vệ đất Việt. Phải chăng đây là bước chuẩn bị cho năm Hữu nghị Việt-Trung 2010 vốn sẽ làm lu mờ lễ kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long mà ai trong dân Việt cũng mong đợi?

Tiếp đến là vụ xử lý các nhà dân báo (bloggers) vào tháng 8+9-2009. Đầu tháng 8-09, nhà dân báo Osin, tức ký giả Huy Đức, đã bị báo Sài Gòn Tiếp Thị sa thải sau khi ông đăng trên blog của mình các bài viết phản đối Trung cộng và tình trạng vi phạm nhân quyền dưới thời Liên bang Xô viết. Ngày 27-8-09, nhà dân báo Người Buôn Gió, tức ông Bùi Thanh Hiếu, đã bị bắt sau khi đăng loạt bài Đại Vệ Chí Dị (mỉa mai quan hệ Trung-Việt) và nhận phân phối một số áo có in hàng chữ "Hoàng Sa-Trường Sa là của VN". Ngày 28-8-09, nhà dân báo Trang Ridiculous, tức ký giả Phạm Đoan Trang của báo VietnamNet, đã bị công an bắt giữ với tội danh "vi phạm an ninh quốc gia" khi chị thông báo cho một số người biết thái độ trịch thượng của tham tán đại sứ quán Trung cộng ("lên lớp" ký giả ta về việc soi rọi vào phẩm chất kém của một số mặt hàng nước này). Ngoài ra chị còn có các bài báo về tranh chấp lãnh thổ Việt-Trung và vai trò của Trung Quốc trong Hội nghị Geneva chia đôi đất nước. Ngày 31-8-09, nhà dân báo Sphinx đã bị công an bắt giữ và khủng bố tinh thần chỉ vì đăng hình chính mình mặc áo với hàng chữ "Hoàng Sa-Trường Sa là của VN". Ngày 1-9-09, nhà dân báo Mẹ Nấm, tức chị Quỳnh Như, đã bị bắt sau khi đăng hình chính mình mặc áo với hàng chữ "Hoàng Sa - Trường Sa là của VN". Đó là chưa kể trên trang blog của mình, chị còn viết nhiều lời lẽ chạm đến Trung cộng. Tháng 5-09, nhà dân báo Change We Need, tức ông Trần Huỳnh Duy Thức, đã bị bắt với tội danh "vi phạm an ninh quốc gia" khi ông đăng các tin tức về thái độ khiếp nhược của lãnh đạo Việt cộng trước các hành vi xâm lấn của Trung cộng.

Tiếp nữa là việc xử lý Viện Nghiên cứu Phát triển (ISD). Dù ngày 6-8-2008, Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN có ra Nghị quyết số 27 về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ mới với những lời lẽ trịnh trọng: «Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội… để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức». Tuy nhiên, khi thấy Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS, của tư nhân, thành lập tháng 9-2007) ngày càng tỏ ra độc lập, đảng CSVN liền quan ngại và muốn đóng cửa nó (xem cuộc phỏng vấn ông Viện trưởng do BBC thực hiện ngày 07-07-2008). Thế nhưng, giọt nước làm tràn ly chính là việc ngày 16-06-2009, trong cuộc tọa đàm do báo VietNamNet tổ chức nhằm tìm “giải pháp đối phó với hàng Trung Quốc chất lượng thấp”, một thành viên của viện là bà Phạm Chi Lan đã dám động tới Thiên triều, khiến Tham tán Kinh tế Thương mại của Đại sứ quán Trung cộng là Hồ Tỏa Cẩm trịch thượng lên tiếng “nhắc nhở”. Thế là ngày 24-07-2009, Thủ tướng Việt cộng đã ban hành Quyết định 97 với lời lẽ «nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cần phải gởi ý kiến phản biện đó cho các cơ quan có thẩm quyền, chứ không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ». Việc ngang nhiên bịt miệng giới trí thức nói riêng và mọi ai trong xã hội nói chung dám lên tiếng phê bình đảng CS như vậy đã khiến Viện Nghiên cứu Phát triển tuyên bố tự giải thể hôm 14-09. Việc xử lý này không thể không có bàn tay lông lá của Trung cộng đằng sau.

Gần đây là vụ xử lý thiền viện Bát Nhã tại Lâm Đồng. Tuy nhà cầm quyền CSVN và báo đài công cụ trong mấy tuần nay luôn miệng ra rả đó là tranh chấp nội bộ Phật giáo. Nhưng qua những sự kiện vốn ngày càng trở nên tệ hại mà cao điểm là việc trục xuất khỏi tu viện Bát Nhã hôm 27-09 rồi khỏi tu viện Phước Huệ 400 tăng sinh trẻ yêu đạo yêu người, yêu dân yêu nước, ai cũng thấy rằng nhà cầm quyền Việt cộng đứng đàng sau tất cả mọi vụ việc và đằng sau đó nữa là nhà cầm quyền Trung cộng. Ấy là vì năm 2007, thiền sư Nhất Hạnh, vị sáng lập Làng Mai Bát Nhã, đã tuyên bố tại Rôma nhiều lời ủng hộ cuộc tranh đấu của nhân dân Tây Tạng khi được báo chí phỏng vấn, cũng như đã đề nghị ban tổ chức đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc nên mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới Việt Nam tham dự lễ này. Những ý kiến đó làm Bắc Kinh nổi giận, nên sau khi tạm để cho Hà Nội chấp nhận thầy về Việt Nam năm 2008 thuyết pháp một vòng (thưởng cho việc “cứu bồ” khỏi CPC), nay thì Trung Cộng nhờ tay sai Việt cộng đuổi trò thẳng cẳng.

Cũng phải nói đến một việc xử lý khác, kiểu “bênh phe ta”, là bỏ qua không trừng phạt website Hợp tác Kinh tế và Thương mại Việt Trung, www.vietnamchina.gov.vn (do bộ Công thương chủ quản) dù trang mạng này đã lâu năm đăng tải những thông tin bất lợi cho Việt Nam và có lợi cho Trung Quốc, cả về việc tranh chấp vùng biển. (Nó được thành lập tháng 11-2006 và bị các bloggers tố cáo tháng 5-2009). Gần đây là vụ báo điện tử của ĐCSVN, www.cpv.org.vn/cpv, ngày 8-9-2009, đăng toàn bộ một bài viết của báo Hoàn Cầu (Trung Quốc), nói đến những cuộc tập trận và huấn luyện của Trung cộng tại Hoàng Sa và Trường Sa như lãnh thổ của họ. Thế nhưng sau khi cả nước la ó, tổng biên tập là Đào Duy Quát cũng chỉ bị một hình phạt hết sức nhẹ là “khiển trách” với 30 triệu đồng moi từ tiền thuế nhân dân! Âu cũng vì nể sợ Quan thầy Đại Hán.

Thời sự nhất là việc xử án 9 nhà dân chủ các ngày 6 đến 9-10 mới rồi. Qua các bản cáo trạng và lời thẩm phán tại tòa, ngoài các lý cớ viết bài đăng mạng, phát biểu trên đài, thả truyền đơn, giăng biểu ngữ “nói xấu nhà nước, vu khống chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia nghiêm trọng”, người ta không thể không lưu ý đến yếu tố Trung Quốc. Trước hết là về nhà thơ Trần Đức Thạch. Một trong những lý do khiến ông bị kết tội chính là chuyến đi khoảng tháng 6-2008 nhằm ủy lạo các gia đình ngư dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa có thân nhân bị hải quân Trung cộng bắn chết trên biển ngày 8-1-2005, rồi vụ việc ông đã dẫn đầu đoàn biểu tình gồm đại diện các gia đình lâm nạn nói trên ra Hà Nội để phản kháng ngọn đuốc Olympic Bắc kinh ô nhục khi nó được rước qua lãnh thổ Việt Nam ngày 29-4-2008, đồng thời để tố cáo tội ác nói trên của Trung cộng. “Tội” của nhà giáo Vũ Hùng cũng là vì đã treo biểu ngữ trên cầu vượt Nam Thăng Long-Nội Bài ngày 28-07-2008 nhằm tố cáo: việc để mất đất, biển, và đảo là có tội với Tổ tiên (ngoài việc phản đối tham nhũng, lạm phát và đòi hỏi đảng CS thực hiện đa nguyên đa đảng). “Tội” của 6 nhà dân chủ bị xử tại Hải Phòng hai ngày 8 và 9-10 cũng chỉ vì đã treo biểu ngữ trong đó có câu “Mất đất mất đảo là do chính quyền đảng CS” trên cầu vượt Lai Cách, thành phố Hải Dương ngày 7-9-2008; rồi treo biểu ngữ có câu “Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo Việt Nam !” trên cầu vượt Lạch Tray, thành phố Hải Phòng ngày 16-8-2008. Rõ ràng là tố cáo cả quân cướp nước lẫn quân bán nước, y như trong nhiều bài báo bài thơ của nhà văn bị cáo Nguyễn Xuân Nghĩa.

Coi những ai phản đối hai nhà cầm quyền Việt-Trung cách ôn hòa, bất bạo động nói trên như thù địch khác giống nòi và gán ghép không ngần ngại những người ái quốc vào cái tội vu vơ là “tuyên truyền chống Nhà nước” và “làm phương hại tình hữu nghị Trung Việt” để giáng lên đầu họ những hình phạt nặng nề. Song song đó lại trương lên câu “Nhiệt liệt chào mừng kỷ niệm 60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” ở ngay thủ đô Hà Nội lẫn nhiều thành phố lớn khác hôm 01-10 mới đây, rồi ra lệnh cho báo chí và ngay cả website của đại sứ quán mình tại Bắc Kinh hết lời ca ngợi sức mạnh quân sự của Trung cộng, trong khi chính cái sức mạnh đó đang uy hiếp sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Tất cả những vụ việc trên cho thấy tập đoàn lãnh đạo Việt cộng chỉ là một lũ Việt gian đúng nghĩa. Cái bản chất “vô tổ quốc”, “phò đại đảng” chảy trong máu từ ngày chúng thấm nhiễm chủ nghĩa Cộng sản nay càng lúc càng bộc lộ rõ rệt. Loài phản dân hại nước đó có đáng nắm quyền tại Việt Nam nữa không?

BAN BIÊN TẬP

vendredi 16 octobre 2009

Biết hổ thẹn là đầu mối đạo Nghĩa

Thursday, October 15, 2009
Ngô Nhân Dụng


Tại sao chúng ta đều xúc động trước những chuyện người đi tìm mộ chồng, mộ cha ở các trại tù “cải tạo” hay đi tìm những ngôi mộ rải rác ở các hòn đảo đã bao dung người tị nạn? Chắc bởi vì chúng ta đều tìm thấy trong những mẩu chuyện đó cách ăn ở có tình có nghĩa của con người đối với nhau. Bởi vì chúng ta đều mang sẵn trong lòng ước muốn sống có đạo nghĩa. Cho nên khi thấy có người sống đúng đạo nghĩa thì chính mình cảm thấy vững tin hơn.

Khi cô Carina Oanh Hoàng tìm thấy mộ của thân nhân mình rồi, cô đi tìm thêm những ngôi mồ khác để săn sóc, cô còn trở lại chụp hình và ghi chép tên tuổi trên các ngôi mồ bị lãng quên trong rừng rú ở các đảo Le Tung và Kuku. Cô ghi lại những thông tin đó để gửi đi bốn phương trời, như những thủy thủ viết những lá thư bỏ vào chai lọ đóng kín rồi thả theo dòng nước biển. Cô không ngờ có nhà báo Người Việt đã nhặt được một lá thư trong chai thủy tinh cô thả theo thủy triều. Và không ngờ có người đọc tờ báo này đã tìm thấy tên người em vắn số của mình trên hình mộ bia đá, 30 năm sau khi em qua đời trên đảo. Người đọc những chuyện trên không biết nên nói những lời chia vui, hay chia buồn? Dù nói gì chăng nữa, chúng ta chia sẻ với tất mọi người một niềm vui chung khi thấy tình nhân loại có thật, có những con người sống thật theo các quy tắc đạo nghĩa.

Và nhà thơ Lê Giang Trần đã có dịp cảm ơn công khai Alizar Acin, một người cảnh sát Indonesia tốt bụng! Vì họ chỉ quen nhau một thời gian ngắn trên đảo Pinang, mặc dù anh ta tự coi như một người con trong gia đình. Và chỉ sau khi gia đình đã định cư ở Mỹ thân phụ Lê Giang Trần mới viết thư nhờ anh cảnh sát làm giúp cái bia đá thay cho tấm gỗ trên mồ cô con gái. Ba mươi năm nay, gia đình vẫn không biết anh Acin đã giúp làm bia mộ hay chưa, đến địa chỉ của anh cũng đã bị mất! Muốn giúp làm bia mộ, anh Acin phải đi từ đảo Pinang nơi anh đóng tới hòn đảo Le Tung, mất 24 giờ đi thuyền. Tại sao anh lại tốt bụng bỏ bao công sức giúp một người cha làm mộ bia cho con như vậy? Anh có cùng tôn giáo với gia đình này để cảm thấy có nghĩa vụ đó hay không? Không, anh Acin đã hết lòng giúp, vì dù theo tôn giáo nào anh cũng được dạy rằng con người phải đối xử với nhau hết lòng như vậy. Khi được ai tin cậy, nhờ một việc gì, thì chúng ta phải làm hết sức mình giữ trọn lời hứa.

Cô Oanh Hoàng đã cho chúng ta thấy mối từ tâm của cô trước những nấm mồ trên đảo hoang thiếu người săn sóc. Anh Alizir Acin đã cho chúng ta thấy tấm lòng trọng nghĩa khinh tài của một cảnh sát viên người Indonesia. Trong một ngày, trên một tờ báo, mà chúng ta được đọc truyện của hai con người sống có tình, có nghĩa; chúng ta phải cảm ơn Trời Phật!

Một xã hội có đạo nghĩa khi nào người ta sẵn sàng giúp đỡ người khác, dù biết không bao giờ gặp lại. Nghĩa là làm ơn nhưng không đợi sẽ có ngày được đền ơn. Trong một xã hội có đạo nghĩa, mọi người được sống an vui hơn, mà trên mặt kinh tế thì đời sống cũng đỡ tốn kém hơn. Người ta không cần gắn hệ thống báo động khắp nơi, có khi không cần khóa nhà, khóa xe mà vẫn không lo mất. Tháng trước, chúng tôi đã kể chuyện cháu bé Emily mất cái mũ trong sở thú ở Madison, Wisconsin. Ngày hôm sau khi bố cháu gọi đến hỏi, nhân viên sở thú đã hứa sẽ gửi bưu điện về tận nhà cho cháu, ở thành phố New York, bố mẹ cháu không phải trả đồng nào cả. Câu chuyện đó kết thúc với câu hỏi: Tại sao người ta có thể đối xử tử tế với nhau như vậy nhỉ? Bao giờ thì trẻ em ở nước Việt Nam được sống với toàn những người tử tế ở chung quanh như vậy?

Giáo Sư Nguyễn Tư Mô đã kể cho chúng tôi một câu chuyện chứng tỏ người Việt Nam cũng đã sống tử tế với nhau như vậy.

Năm 1955, cụ Nguyễn Tư Mô đã cùng Bác Sĩ Bùi Kiến Tín dẫn một đoàn vài chục sinh viên y khoa, nha khoa và dược khoa đi làm công tác chẩn bệnh và phát thuốc giúp đồng bào tại vùng Châu Ðốc. Buổi trưa khi mới tới, cả đoàn công tác vào chợ Hồng Ngự ăn uống và thăm sinh hoạt của người địa phương. Sau đó, phái đoàn đến một trụ sở bắt đầu công tác y tế. Khoảng một tiếng đồng hồ sau khi họ rời chợ, có một người đàn ông khoảng 30 tuổi tìm tới trụ sở tạm của phái đoàn, để đem trả một cặp kính mát. Anh ta nhặt được cặp kính loại tốt này ở ngoài chợ, và anh nghĩ chỉ có những người Sài Gòn mới dùng thứ “đồ xa xỉ” đó chứ không phải người địa phương mất, cho nên anh đem tới trả.

Cụ Nguyễn Tư Mô, cựu khoa trưởng Ðại Học Nha Khoa Sài Gòn, không bao giờ quên kỷ niệm đó. Khi chúng ta trông thấy tận mắt cảnh những con người sống tử tế với nhau, chúng ta cũng không bao giờ quên được. Chúng ta thấy tin tưởng có thể làm sống lại nền nếp đạo nghĩa của người Việt Nam. Vì chúng ta biết chắc trong truyền thống của dân tộc đã có sẵn những hạt nhân đạo nghĩa, chỉ cần mưa thuận gió hòa thì những hạt giống tốt đó sẽ nẩy mầm rồi lớn lên mãi.

Ðó là điều Mạnh Tử đã dạy từ hơn hai ngàn năm trước. Con người ta ai cũng có lòng thương xót, cho nên ai cũng có đầu mối của đạo Nhân. Ai cũng có tấm lòng biết xấu hổ và ghét cái xấu là đầu mối của đạo Nghĩa.” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, VI, 7: Trắc ẩn chi tâm, Nhân chi đoan dã. Tu ố chi tâm, Nghĩa chi đoan dã).

Tấm lòng trắc ẩn của người Việt Nam không bao giờ mất, dù trải qua bao nỗi khổ cũng không bị hao mòn. Một trận bão đánh vào miền Trung, bao nhiêu người ở trong và ngoài nước chuẩn bị cứu giúp các nạn nhân.

Nhưng tấm lòng tu ố, biết xấu hổ, thì hiện nay có phần giảm sút. Nhiều người không còn biết hổ thẹn nữa, cho nên họ có thể thản nhiên làm điều xấu mà không phải che mặt, không cần trốn lánh. Quý vị có thể hỏi thăm ông Huỳnh Ngọc Sỹ hiện giờ sống ra sao? Ông có bao giờ che mặt khi bị nhà báo chụp hình hay không? Ông có cảm thấy hổ thẹn khi cả nước Nhật biết ông được hối lộ hàng triệu đô la Mỹ hay không? Ông có lo con cháu ông sau này sẽ xấu hổ khi bị người ta hỏi đến tông tích hay không?

Chúng ta có thể đoán là ông Huỳnh Ngọc Sỹ không có những phản ứng kể trên. Không phải vì ông phi đạo đức, mà vì ông không chia sẻ cùng một nền đạo nghĩa với đa số người Việt Nam hoặc các dân tộc Á Ðông. Ông Huỳnh Ngọc Sỹ được huấn luyện một nền đạo đức khác. Trong cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” ông Hồ Chí Minh đã giảng giải đạo đức cho những người theo ông làm cách mạng như sau:

“Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là:

Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng. Ðó là điều chủ chốt nhất.

Ra sức làm việc cho đảng, giữ vững kỷ luật của đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của đảng.”

Hai điểm đầu tiên trong định nghĩa đạo đức của Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến lòng trung thành với đảng. Nếu ông Huỳnh Ngọc Sỹ đã “thi hành tốt” chính sách của đảng khi đưa tay ra nhận tiền của người Nhật, thì trong lòng ông không cảm thấy hổ thẹn nữa. Vì ông làm đúng theo lời dạy của Hồ Chí Minh. Một đảng viên có thể ăn cắp, giết người, buôn phụ nữ bán cho người nước ngoài, lấy của công làm của riêng, nhưng nếu lúc nào cũng sẵn sàng theo lệnh đảng thì không cần phải hổ thẹn.

Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi một “sử gia” như Trần Huy Liệu đã bịa chuyện anh hùng Lê Văn Tám để dựng lên một thần tượng làm mồi cho bao nhiêu thanh niên Việt Nam khác theo gót, nghĩ mình hy sinh chết cho tổ quốc nhưng cuối cùng chỉ có đảng Cộng Sản được hưởng. Trần Huy Liệu vốn là đảng viên Quốc Dân Ðảng Việt Nam, sau đi theo cộng sản. Vào cuối đời, có lẽ ông đối diện với lương tâm cảm thấy bên trong những quyền lợi của đảng, còn có những giá trị cao quý khác. Do đó, ông đã ủy thác cho sử gia Phan Huy Lê sau này hãy xóa bỏ cái thần tượng giả trá đó đi. Giống như Chế Lan Viên, vào cuối đời cũng để lương tâm sống lại, tự hỏi mình đã viết bao nhiêu câu thơ xúi giục bao thanh niên Việt Nam đi chết ở dãy Trường Sơn! Bây giờ, có thi sĩ đã viết bài “Tạ lỗi với Trường Sơn” thì bao nhiêu mạng người đã chết. Người đã chết không thể sống lại. Như kịch tác gia Lưu Quang Vũ viết: Có những cái sai không thể sửa được.

Ðối với các ông Trần Huy Liệu và Huỳnh Ngọc Sỹ, họ đã nói dối để phục vụ đảng, đã đòi ăn hối lộ theo chính sách của đảng, hệ thống đạo đức của họ cho phép các hành động đó, vì Hồ Chí Minh đã biện minh rất rõ ràng.

Nhưng đối với những người Việt Nam khác thì đây là một tai họa. Vì khi những người nắm quyền cai trị một nước, mỗi lời nói mỗi hành động đều ảnh hưởng tới hàng triệu người khác, mà nói dối trắng trợn quá thì mọi người sẽ lấy đó làm gương. Nhất là các thiếu niên còn bé dại. Khi một đảng lãnh đạo không giữ được tấm lòng “biết hổ thẹn” thì mọi người dân khác cũng dần dần mất đi cái tính biết hổ thẹn. Nghĩa là bỏ mất một nguồn gốc của đạo nghĩa.

Kể từ khi ông Phan Huy Lê công bố lời dặn của Trần Huy Liệu hãy xóa bỏ thần tượng Lê Văn Tám, từ năm 2005 đến nay, cả guồng máy cai trị và tư tưởng, văn hóa của đảng Cộng Sản vẫn không nhấc một ngón tay lên để cải chính với lịch sử. Tất cả những em bé đang được học chuyện Lê Văn Tám trong trường đều biết đó là chuyện dối trá. Những người đi qua công viên Lê Văn Tám đều biết đó là một nhân vật giả. Nếu có cặp tình nhân vào công viên Lê Văn Tám mà thề thốt với nhau thì họ có tin nhau hay không?

Có phải người Việt Nam đã mất cảm ứng, không còn thấy chướng tai khi nghe những lời giả dối nữa hay không?

Nhưng chúng ta biết gần một thế kỷ cộng sản hóa cũng không làm mất được tính thiện của con người Việt Nam. Người Việt Nam vẫn còn biết xấu hổ trước những lời dối trá. Bữa trước một người Việt ở trong nước điện thoại cho biết anh nghe những lời giải thích của “phát ngôn viên chính phủ” về vụ tăng ni ở Bát Nhã thì cảm thấy nghẹn ở cổ họng, tức thở. Vì anh không thể tưởng tượng tại sao người ta có thể nói dối một cách trắng trợn và thản nhiên, chối bỏ những sự thật ai cũng biết như vậy?

Ðiều đó chứng tỏ anh bạn, ngoài 50 tuổi, vẫn còn giữ được “Tu ố chi tâm, Nghĩa chi đoan giã,” biết xấu hổ là nguồn gốc của nghĩa khí. Mai mốt công an cộng sản sẽ bịa ra những câu chuyện, hình ảnh để vu oan, kể tội lỗi của các thiền sinh trẻ này. Hy vọng anh bạn tôi sẽ được chuẩn bị trước, không nghẹn hơi tức thở nữa! Hãy coi đó là một cuốn phim Lê Văn Tám mới!

Về nhân vật anh hùng Lê Văn Tám

GS. Phan Huy Lê lần đầu tiên công bố trên truyền thông nhà nước: ‘Anh hùng Lê Văn Tám’ hoàn toàn không có thật
Thursday, October 15, 2009

Khôi Nguyên/Người Việt


HÀ NỘI (NV)- Giáo Sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, vừa lên tiếng chính thức trên truyền thông nhà nước và khẳng định rằng nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” là hoàn toàn không có thật.

Giáo Sư Phan Huy Lê công bố việc này trong một bài viết được đăng trên tạp chí Xưa và Nay của của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, số ra Tháng Mười, năm 2009.Bài viết sau đó được báo Khoa Học và Ðời Sống (www.bee.net.vn) đưa lên mạng vào ngày 14 Tháng Mười, năm 2009, với tựa đề “GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám.”

Ðây được coi là lần đầu tiên Giáo Sư Phan Huy Lê lên tiếng về sự kiện này trên một cơ quan truyền thông chính thức của nhà nước Việt Nam.

Cách đây hơn 4 năm, trên báo Người Việt số ra ngày 19 Tháng Ba, 2005, lần đầu tiên Giáo Sư Phan Huy Lê đã bạch hóa việc nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” là không có thật. Trả lời phỏng vấn, Giáo Sư Phan Huy Lê nói rằng, “trong một dịp thuận tiện” ông sẽ công bố sự kiện này trên truyền thông tại Việt Nam.

Sau khi đọc được bài viết trên trang mạng www.bee.net.vn, nhật báo Người Việt đã gọi điện về Hà Nội hỏi chuyện Giáo Sư Phan Huy Lê, tuy nhiên ông đang đi công tác tại Hải Phòng nên không liên lạc được.

Trong bài viết trên tạp chí Xưa và Nay, Giáo Sư Phan Huy Lê nhấn mạnh khi giải thích về nhân vật Lê Văn Tám, rằng: “Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.”

Tưởng cũng xin nhắc lại về nhân vật anh hùng Lê Văn Tám: Bất cứ ai đã từng là học trò tại miền Bắc Việt Nam những năm trước 1975 và cả Việt Nam sau 1975 đều biết về câu chuyện Lê Văn Tám, một thiếu niên hơn 10 tuổi, bán đậu phộng rang vì lòng yêu nước căm thù giặc Pháp đã tẩm xăng vào người làm “ngọn đuốc sống” đốt kho đạn giặc tại Thị Nghè thành phố Sài Gòn vào ngày 1 Tháng Giêng, năm 1946.”

Câu chuyện về người thiếu niên dũng cảm này đã đưa vào sách giáo khoa dành cho lớp 4 hoặc lớp 5. Nó được truyền tụng tới mức rất nhiều tỉnh và thành phố của Việt Nam lấy tên Lê Văn Tám đặt cho các trường học, tượng đài, công viên, đường phố. Tại các trường học, tên Lê Văn Tám cũng được đặt cho các chi đội, liên đội thuộc tổ chức “Ðội Thiếu Niên Tiền Phong.”

Những giải thích về lý do vì sao lại có nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” của Giáo Sư Phan Huy Lê trên tạp chí Xưa và Nay không khác lắm với lời giải thích của ông với báo Người Việt cách đây hơn 4 năm.

Giáo Sư Phan Huy Lê kể lại câu chuyện ông có dịp làm việc với Giáo Sư Sử Học Trần Huy Liệu vào những năm 1960, lúc ấy ông Trần Huy Liệu là phó chủ nhiệm Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, kiêm viện trưởng Viện Sử Học. Ông Trần Huy Liệu mất năm 1969.

Giáo Sư Phan Huy Lê tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của Giáo Sư Trần Huy Liệu, như sau: “Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng Tháng Mười, 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã “dựng” lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.”

“GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Ðây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.”

Giáo Sư Phan Huy Lê nhấn mạnh là “GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.”

Theo lời Giáo Sư Lê thì, “Giáo Sư Trần Huy Liệu giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Ðổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách Mạng Tháng Tám. Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức bộ trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền trong chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.”

Giáo Sư Phan Huy Lê cũng nói lại điều căn dặn của Giáo Sư Trần Huy Liệu là: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.”

“Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Ðây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.” Giáo Sư Phan Huy Lê viết.

Giáo Sư Lê khẳng định: “Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.”

Ðiều này trùng hợp với lời khẳng định của ông trên báo Người Việt 4 năm về trước, rằng: “Là những nhà sử học, chúng tôi phải giữ một thái độ trung thực và phải tiếp cận với sự việc càng rõ ràng càng tốt và vì thế tôi đã công bố ‘lời nhắn nhủ’ của anh Trần Huy Liệu.”

Hồi năm 2005, trong cuộc họp với hãng phim truyền hình Việt Nam (thuộc đài truyền hình VN) Giáo Sư Phan Huy Lê, từng nói về chi tiết phi lý về “Lê Văn Tám” rằng: “Cậu bé Lê Văn Tám sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ, và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

Tuy nhiên, không phải không có ý kiến phản bác lại những gì Giáo Sư Phan Huy Lê công bố.

Sau bài trên báo Người Việt (Tháng Ba, năm 2005), thì ba năm sau, tờ Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày Thứ năm, 16 Tháng Mười, 2008, có bài viết tựa đề “Về cây đuốc sống Lê Văn Tám” của ông Trần Trọng Tân, nguyên là trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa Thành Ủy, thành phố Sài Gòn. Trong bài này, ông Trần Trọng Tân nói rằng: “Có người đã gửi cho tôi một tài liệu được lấy trên mạng thông tin điện tử, trong đó Giáo Sư Phan Huy Lê đã tiết lộ: ‘Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật’.”

Sau khi dẫn ra nhiều tư liệu, ông Trần Trọng Tân khẳng định rằng “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực.

Ông Tân viết: “Ðánh kho đạn Thị Nghè có 2 lần vào ngày 17 Tháng Mười. 1945 và ngày 8 Tháng Tư, 1946; trận ngày 17 Tháng Mười, 1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực; Lê Văn Tám đã đốt kho đạn, không phải kho xăng; Lê Văn Tám không phải “tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng” mà “đã lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa thành ‘cây đuốc sống’; người tổ chức, bày kế hoạch cho Lê Văn Tám làm là anh Lê Văn Châu, đã hy sinh trong trận đánh giặc Pháp ở Ngã ba Cây Thị năm 1946.”

Tuy vậy, ý kiến của ông Trần Trọng Tân không được dư luận đồng tình, bởi ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp. (K.N)





Những Bài Liên Quan:

Giáo sư Phan Huy Lê: Nhân vật lịch sử “anh hùng Lê Văn Tám” hoàn toàn không có thật (Sunday, March 20, 2005 4:52:17 PM)
Tại một cuộc họp của hãng phim truyền hình Việt Nam vào cuối tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội, giáo sư Phan Huy Lê, hiện là Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, đã tiết lộ: “Nhân vật lịch sử 'anh hùng Lê Văn Tám' hoàn toàn không có thật!” Ông cũng khẳng định lại điều này trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Người Việt.

jeudi 15 octobre 2009

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn"...

--------------------------------------------------------------------------------
Người việt xấu xí
shinra, diễn đàn Hoàng Sa
13.10.2009

Khỏi mất thời gian của quý vị, xin nói mấy lời chân tình.

Quý vị có biết vụ tẩy trứng gà Tàu thành trứng gà ta không? Quý vị có suy nghĩ như thế nào?

Nếu hỏi quý vị một câu rằng nếu quý vị là một người dân thuộc làng Đông Ngàn, quý vị có tham gia vào cái việc tẩy trứng rồi đem đầu độc lại đồng bào của các vị không, thì chắc 100% quý vị ở đây trả lời là không. Nhưng kỳ thực là quý vị đang làm những việc tệ hại hơn nhiều so với việc ấy.

Quý vị có bao giờ thấy người dân các nước "tư bản thối nát" "theo đuôi Mỹ" như châu Âu, Nhật, hàn Quốc người ta làm những cái trò đồi bại như tẩy trứng bằng axit, trộn melamin vào sữa, bơm hoá chất vào rau quả, quết mật ong giả vào chân gà thối.... để đem đầu độc chính giòng giống của họ không? Tuyệt nhiên là không.

Những vị nào đọc đến đây mà bảo tôi là "rân chủ", "ăn phải bã của tư bản", thì mời quý vị khỏi đọc nữa, đỡ mất thời gian của quý vị.

Quý vị có bao giờ nói hàng Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn, Thái là rởm, là đểu, là lừa đảo, là chạy theo đồng tiền... không? Hay là quý vị lùng sục mua bằng được những món đồ sản xuất ở những nước "tư bản thối nát" ấy với giá đắt gấp đôi gấp ba so với hàng của Trung Quốc?

Quý vị có thể không tẩm chất độc vào trứng, vào rau như những người nông dân kém hiểu biết, nhưng quý vị lại tẩm chất độc vào đầu óc của những con người xung quanh quý vị bằng những lời dối trá, hối lộ, chạy chọt để được vinh thân phì gia. Dần dần, mọi người trong xã hội đều chạy theo quý vị với một suy nghĩ cực kỳ lệch lạc rằng "mình không làm ắt sẽ có người khác làm".

Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị lại có tác động ngược trở lại kinh tế.

Một xã hội mà ai cũng chỉ biết lo cho bản thân mình như xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc thì có đáng được gọi là "xã hội chủ nghĩa" không?

Các vị có hiểu thế nào gọi là "xã hội chủ nghĩa" và "tư bản chủ nghĩa" không? Các vị hiểu "XHCN" tức là có đảng cộng sản lãnh đạo còn "TBCN" là có nhiều đảng thay nhau lãnh đạo, hoặc là "nhiều đảng tư sản thay nhau lãnh đạo" phải không? Sai lầm.

Xã hội chủ nghĩa là đặt xã hội lên đầu, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, nó đối lập với tư bản chủ nghĩa nơi mà "tư bản" được đặt lên đầu, mà tư bản chính là "tiền nằm trong lưu thông", hay nói tóm lại "tư bản" là lợi ích cá nhân. Theo Hán Việt "tư bản" nghĩa là "vốn".

Một xã hội như Mỹ, Nhật là nơi mà con người luôn sống vì lợi ích riêng, nhưng không chà đạp lên lợi ích chung.

Người Nhật không bao giờ tẩm thuốc kích thích vào rau quả vì họ biết làm như thế sẽ gây hại cho những người đồng bào của họ, họ cũng không xuất khẩu những đồ kém chất lượng vì nó sẽ gây hại đến những đồng loại của họ, dù là người nước ngoài. Người Nhật có thể tự sát, kết thúc sinh mệnh của mình, để bảo toàn danh dự cho gia đình, cho dòng tộc của họ.

Một xã hội như Việt Nam, Trung Quốc là nơi con người miệng thì nói rằng "vì lợi ích tập thể", "xã hội chủ nghĩa", nhưng tay và chân thì chà đạp giày xéo lên người khác. Hãy nhìn thử một vụ tắc đường ở Việt Nam và một vụ tắc đường ở Thái Lan thì biết.

Vậy ở đâu mới xứng đáng là xã hội chủ nghĩa?

Đó là một điều mà tôi muốn nói với quý vị.

Các vị nói rằng ngày xưa dù nghèo khổ nhưng Việt Nam vẫn kiên cường chống lại hai đế quốc to. Điều này là đúng và theo một nghĩa nào đó, thì đáng tự hào.

Nhưng các vị lại nói ngày nay để được hoà bình, hay nói toẹt ra là để các vị được yên ổn làm ăn, yên ổn kiếm tiền, thì Việt Nam cần mềm dẻo với Trung Quốc, cho dù trên thực tế và trên tuyên bố, Trung Quốc đã và đang chiếm nhiều đất của chúng ta.

Vậy theo cái lý ngày xưa của quý vị thì đáng ra Việt Nam phải vùng lên đánh lại Trung Quốc, hoặc theo cái lý ngày nay của quý vị thì đáng ra ngày xưa Việt Nam không nên đánh lại Pháp và Mỹ mới phải.

Nhưng sự thực thì quý vị luôn tự hào về ngày xưa và đớn hèn về ngày nay. Chẳng có cái lý nào ngoài cái lý tiền. Các vị sợ đánh nhau với Trung Quốc thì con cái các vị phải ra trận, hoặc ít ra thì khi có chiến tranh, việc làm ăn kiếm tiền của các vị sẽ khó khăn hơn. Tóm lại các vị chỉ biết có bản thân mình, các vị cá nhân chủ nghĩa ở trình độ cao cấp.

Đó là cái thứ hai tôi muốn nói với các vị.

Các vị khi thì hô hào "Việt Nam là bạn với thế giới", khi thì hô hào "Việt Nam phải cảnh giác với Mỹ, Âu, Tàu, Nhật". Như thế là cái lý gì?

Vì cái tư tưởng lúc nào cũng thù với hận của các vị, nên các vị không bao giờ thật lòng giao hảo với bất cứ ai. Các vị bắt tay người nước ngoài khi họ đến mang theo đô la và các vật dụng đắt tiền cho các vị hưởng, nhưng các vị lại vênh mồm lên chửi khi họ chỉ ra những cái sai lầm của quý vị. Quý vị biện luận rằng trong quan hệ quốc tế thằng nào cũng chỉ lợi dụng lẫn nhau thôi. Vậy thì người ta sẽ nghĩ về quý vị đúng như thế. Thuỵ Điển, Na Uy hàng năm cho không Việt Nam hàng triệu đô la và nhiều chương trình đào tạo phát triển, họ lợi dụng gì quý vị? Hay là quý vị nghĩ rằng họ chẳng qua muốn lấy lòng quý vị nên mới thế? Vậy nghĩ xem quý vị đã là cái thá gì mà người ta phải lấy lòng?

Quý vị thử chìa tay ra cho một người, rồi biết được người ấy lúc nào cũng nhăm nhăm "cảnh giác cao độ" với cái chìa tay của quý vị, thì quý vị sẽ nghĩ gì về người đó?

Đầu óc quý vị quá đen tối và nói thẳng ra quý vị cũng suốt ngày tìm cách lợi dụng người khác nên mới nghĩ cho người khác đen tối như thế.

Vì thế nên Việt Nam ta mới tụt hậu so với nước ngoài như hôm nay. Những quốc gia như Nhật, Hàn, Thái Lan vốn có điểm xuất phát không hơn ta là mấy nhưng nay họ đã vượt ta nhiều, đó là vì sao? Vì họ có tầm nhìn hơn chúng ta. Vì họ hiểu được một lý thuyết cơ bản nhất của thương mại đó là cả hai bên cùng có lợi, họ không bao giờ bắt tay với người khác mà trong bụng thì cứ nơm nớp lo người ta "lợi dụng" mình. Suy nghĩ kiểu như thế chỉ tồn tại trong những bộ óc chưa tiến hoá hết từ vượn sang người.

Nói thẳng ra, các vị là những kẻ hám tiền, lo cho lợi ích của cá nhân và cùng lắm là gia đình mình, là hết. Các vị ưa xiểm nịnh, khi báo Washington Post đưa tin rằng nền kinh tế Việt Nam đang cất cánh thì quý vị tung hô tờ báo ấy như là chuẩn mực của sự trung thực, còn khi cũng báo Washington Post đưa tin về tham nhũng của Việt Nam thì các vị nói họ đưa tin không chính xác. Cái thái độ lá mặt lá trái ấy cũng đúng trong trường hợp người ta nói về "kẻ thù" của quý vị, ví như việc Ân Xá Quốc Tế lên án Mỹ vi phạm nhân quyền và cũng lên án Việt Nam với tội danh tương tự.

Đây là điều thứ ba tôi muốn nói với quý vị.

Điều thứ tư nghe sẽ hơi sốc: nói thẳng ra là quý vị cực ngu.

Quý vị không tin vào các thông tin "lề trái", tức là những thông tin trái ngược với báo chí chính thống và những tuyên bố chính thức của Việt Nam. Nhưng bản thân quý vị đang sinh hoạt ở một diễn đàn có tên miền quốc tế, đã hoạt động được hơn 2 năm nhưng ngân khoản duy trì sự tồn tại của nó vẫn là từ tiền của cá nhân những con người đáng trân trọng đã lập ra website này. Tại sao website này không thể có đuôi .vn và cũng không thể đăng quảng cáo được, quý vị nếu đủ thông minh thì đã nghĩ ra từ lâu rồi.

Quý vị quy kết tất cả những lời nói, bài viết của người khác là "phản động" "chống lại Việt Nam", "bán rẻ tổ quốc" chỉ vì những người ấy không có tư tưởng giống như quý vị. Quý vị bỏ ngoài tai mọi lời phân tích không theo ý kiến của quý vị, quý vị biến một diễn đàn trao đổi tri thức thành một cái chợ để cãi nhau và sỉ vả nhau bằng những từ như "thằng chó", "con lợn", một cách tự nhiên không biết ngượng mồm. Nếu vậy quý vị mất thời gian lên diễn đàn làm gì? Sao không trùm chăn lại tự nói cho xong?

Quý vị gọi người khác là "chống lại đất nước" bởi vì họ chống lại suy nghĩ của quý vị, như thế khác gì quý vị tự coi mình là đại diện của nước Việt Nam? Quý vị tự cho mình là người phát ngôn của chính phủ Việt Nam, hay ngắn gọn, quý vị chính là Việt Nam?

Quý vị kêu gọi người ta "cảnh giác với những âm mưu gây chia rẽ", nhưng lại không nhận ra rằng chính cái lời kêu gọi ấy của quý vị là một âm mưu gây chia rẽ. Nếu quý vị muốn sống tốt với hàng xóm của mình, ắt quý vị không bao giờ bắc loa giữa phố mà rằng "hãy cảnh giác với thằng A, con B, hàng xóm của tôi, chúng nó đang âm mưu chia rẽ".

Quý vị ngu lắm.

Muốn đất nước phát triển được, hãy thôi mò mẫm và ảo tưởng trong cái thế giới độc tôn của quý vị, hãy tỉnh táo trước những khẩu hiệu, hãy đi vào bản chất thay vì hô hào bên ngoài, hãy lắng nghe xem người khác nói thế nào, và hãy chân thật trong mọi mối quan hệ.

Nhưng tôi không vọng tưởng rằng một ngày nào đó quý vị sẽ thay đổi. Quý vị sẽ mãi mãi là người dân của một đất nước tụt hậu, tham nhũng, ô nhiễm và không được bạn bè quốc tế coi trọng.

Đến đây chợt nhớ câu nói của cụ Tản Đà: "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn..."

Gửi một số quý vị trong diễn đàn, ai đọc thấy không phải mình thì tức là không phải đối tượng mà tôi nói đến.
Nguồn: hoangsa.org

samedi 3 octobre 2009

Cứ phải nói dù không biết nói

VietCatholic News (02 Oct 2009 16:06)
LTS: Ngày 30 tháng 9, VietCatholic đã đăng bài Lậy Chúa, Chúng Con Không Biết Ăn Nói của Linh Mục Nguyễn Hồng Giáo. Hôm nay, chúng tôi nhận được bài Cứ Phải Nói Dù Không Biết Nói của Linh Mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh. Vietcatholic đăng bài này để rộng đường dư luận.

Tác giả

Sáng 30-09-2009, ở đầu điểm nóng trang mạng Vietcatholic có bài “Lạy Chúa, chúng con không biết ăn nói” của linh mục Nguyễn Hồng Giáo, Dòng Phan-xi-cô. Cha Giáo ít khi xuất hiện trên Vietcatholic, nhưng đối với giới Công Giáo ở trong cũng như ngoài nước, ngài không phải là một người xa lạ: ngài là người đứng đầu Dòng Phan-xi-cô Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp, lại là người điều hành Ban Tu Sĩ Thành phố Hồ Chí Minh trong hơn 2 thập niên sau 1975, là giáo sư Triết của nhiều thế hệ linh mục Sài Gòn, và là một cộng tác viên đắc lực của tờ “Công Giáo & Dân Tộc”. Dài dòng như thế để hiểu thái độ trân trọng của Vietcatholic.

Nội dung

Nội dung bài viết của cha Giáo nằm ngay trong tựa đề: “Lạy Chúa, chúng con không biết ăn nói”. Đây có thể được xem như tiêu đề bài giảng ngày 23-06-2009 của đức cha Phao-lô Bùi Văn Đọc, giám mục Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin của HĐGM/VN, trước sự hiện diện của tất cả các giám mục Việt Nam trong thánh lễ đồng tế tại vương cung thánh đường thánh Phao-lô ngoại thành, với sự tham dự đông đảo của linh mục, tu sĩ, giáo dân Việt Nam đang làm việc hay học tập tại Rô-ma, cùng với đoàn hành hương của giáo xứ Việt Nam tại Pa-ri. Bài viết của cha Giáo dài suýt soát gấp đôi bài giảng của đức cha Đọc, trong đó cha Giáo cho thấy tầm quan trọng của người nói, của địa điểm và thời điểm, liên quan đến một đề tài đã được nhiều người Công Giáo Việt Nam ở trong và nhất là ngoài nước đề cập tới, đó là sự thinh lặng của các giám mục Việt Nam trước các vấn đề thời sự nóng bỏng, đặc biệt trong những năm gần đây: từ vụ cha Nguyễn Văn Lý, đến các vụ dân oan, bauxite, đến việc các nhà bất đồng chính kiến bị bỏ tù, và đặc biệt hơn nữa, vì trực tiếp liên quan đến Giáo Hội Công Giáo, đó là các vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý… Ngoại trừ một câu duy nhất, ngắn gọn, có vẻ được thêm vào “cho có chị có em” đó là câu “Nhưng thận trọng, cân nhắc có thể trở thành nhút nhát, do dự dẫn tới thiếu sót trong trách nhiệm”, còn toàn bài viết của cha Giáo là một lời biện minh hùng hồn cho lập trường giữ thinh lặng của các giám mục được giãi bày trong bài giảng của đức cha Đọc. Bài viết như một luồng gió mát giữa tiết trời oi bức do rất nhiều bài viết tạo ra, ở trong nước thì không có bao nhiêu (có lẽ do ngại không dám viết) nhưng ở ngoài thì rất nhiều, và có khi rất nặng nề, cho thấy nỗi chán chường nếu không nói là thất vọng của người tín hữu, giáo sĩ cũng như giáo dân, trước thái độ thờ ơ lạnh lùng của các giám mục Việt Nam. Các giám mục hẳn là vui khi thấy đồng minh của mình là một tiếng nói có trọng lượng.

Một số điểm cần làm sáng tỏ

Mở đầu bài giảng đức cha Đọc đề cập đến những khó khăn của các giám mục: “Trước sự phức tạp của tình hình thế giới, trước những thế lực giằng co chống đối nhau luôn muốn lôi kéo chúng tôi về phía họ… Để không làm công cụ cho một thế lực chính trị nào, chúng tôi phải giữ gìn lời ăn tiếng nói…” Đây là những điều dễ hiểu, và ai cũng thông cảm cho các giám mục. Thế nhưng khi “giữ gìn lời ăn tiếng nói” có nghĩa là ngậm miệng làm thinh để không nói gì, thì cũng có thể bị lợi dụng. Ví dụ hồi nổ ra vụ cha Nguyễn Văn Lý, chính sự thinh lặng của các giám mục đã khiến Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết nghĩ mình có lý do để tuyên bố với hãng CNN Hoa Kỳ: “HĐGM/VN và Toà Thánh Va-ti-can cũng đồng tình và ủng hộ việc xét xử linh mục Nguyễn Văn Lý” (Tuổi Trẻ ngày 07-07-2007).

Đức cha Đọc cũng nói đến thái độ lạc quan của ngài và của nhiều giám mục. Ngài nói: “chúng tôi vẫn tươi cười, vẫn làm việc hăng say, hết lòng phục vụ Dân Chúa và những người chưa biết Chúa”. Chúng ta mừng cho ngài, cho các giám mục. Cũng cần nói thêm rằng không riêng gì các giám mục, nhưng bất cứ người tín hữu bình thường nào cũng không thể phủ nhận những gì là tốt đẹp, là tích cực Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chúng ta đã và đang làm trên đất nước hôm nay, dưới chế độ cộng sản.

Đức cha Đọc còn nói: “Đã có một thời cách đây khoảng 50 năm, có rất nhiều người ước ao được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng Chúa Giê-su tại các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Sô, các nước Đông Âu, Trung Hoa lục địa, mà không được mãn nguyện. Bây giờ, chính chúng tôi, được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng trong một Nước cộng sản…” Chẳng phải các giám mục Việt Nam sung sướng khi sống dưới chế độ cộng sản, nhưng đoạn này cho thấy các ngài hài lòng với thứ tự do đang có: “được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng…” cụ thể là được xây nhà thờ, mở chủng viện, truyền chức linh mục, cử hành bí tích, v.v… Những chuyện này, không ai phủ nhận. Vấn đề là để được những thứ đó, cái giá phải trả là Giáo Hội Công Giáo phải ngậm miệng làm thinh mặc cho chế độ cộng sản Việt Nam tung hoành như mọi người đang chứng kiến.

Khi nói “anh chị em hãy khích lệ chúng tôi rao giảng Tình Yêu Thiên Chúa bằng ‘lời nói và hành động’, cho mọi người, không trừ một ai”, trong văn mạch, phải hiểu: Kể cả người cộng sản. Nhưng cứ theo chữ nghĩa mà nói, “không trừ một ai” trên đất nước Việt Nam hôm nay, thì còn phải nghĩ đến bao người dân oan mỏi mòn tìm công lý, bao nhiêu người đang ở tù chỉ vì bị coi là chống chế độ. Và còn biết bao nạn nhân của gian dối, bất công, bao nhiêu người thấp cố bé họng bị gạt ra bên lề xã hội. Ngay cả khi chính con cái mình, giáo dân và linh mục, bị đánh đập tàn nhẫn, kẻ u đầu, người gãy răng, mà từ hàng giám mục không được một lời ủi an khích lệ, không có được một cử chỉ hiệp thông cầu nguyện thì phải hiểu thế nào? Có phải cứ giữ miệng làm thinh trước bạo tàn, bất công gian dối là có thể “rao giảng Tình Yêu của Thiên Chúa bằng lời nói và hành động?”

Đức cha Đọc nói tiếp: “Nếu có ai không thích cộng sản, người ấy không nên yêu cầu chúng tôi khích bác họ.” Chắc không có ai yêu cầu các giám mục “khích bác” cộng sản đâu, vì làm như thế là thiếu khôn ngoan và chẳng ích lợi gì. Nhưng sống trong một xã hội gian dối, bất công, phi nhân, thì thinh lặng là gì nếu không phải là đồng loã ?

Lấy Lời Chúa làm điểm tựa

Nhưng có lẽ điều quan trọng đáng nói nhất trong bài giảng đức cha Đọc là việc ngài lấy Lời Chúa làm điểm tựa.

Trong một bối cảnh hết sức đặc biệt như đã nói ở trên, đức cha Đọc có vẻ không phải minh định cho bằng giãi bày nỗi niềm của mình, và cũng là của anh em giám mục của mình. Để làm việc đó, ngài dựa vào lời Chúa trong đoạn sách Giê-rê-mi-a đọc trong thánh lễ hôm đó. Trong đoạn sách này, qua cuộc đối thoại giữa ngôn sứ với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kể lại câu chuyện ông được Thiên Chúa kêu gọi đi làm ngôn sứ, đi truyền đạt lời Chúa cho anh em. “Lạy Đức Chúa, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói !” (Gr 1,6). Trong bài của cha Giáo, tác giả chỉ dừng lại ở đây thôi. Nhưng trong bài giảng của mình, đức cha Đọc còn đi xa hơn khi trích dẫn đoạn tiếp theo, là lời Chúa nói với ngôn sứ: “Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi, Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói” (Gr 1,7). Trích dẫn câu này để biện minh cho sự thinh lặng của mình thì đã là chuyện lạ rồi. Càng lạ hơn nếu ta đọc tiếp lời của Chúa trong đoạn sách Giê-rê-mi-a, nhưng đức cha Đọc đã bỏ không trích dẫn: “Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi, – sấm ngôn của Đức Chúa. Rồi Đức Chúa giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: Coi, hôm nay ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng” (Gr 1,7-10). Như thế có nghĩa là Chúa không chấp nhận lý do Giê-rê-mi-a đưa ra nhằm từ chối sứ mạng được giao: “quá trẻ, không biết ăn nói.” Đổi lại Chúa hứa với Giê-rê-mi-a: “Có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Lời hứa của Chúa, vẻn vẹn chỉ có vậy. Thế nhưng nếu ta hiểu, nếu ta tin Thiên Chúa là Đấng nào, thì lời hứa đó là quá đủ. Và ngay sau đó là một sứ mạng khủng khiếp ngôn sứ phải chu toàn: “đứng đầu các dân các nước để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng.”

Được chọn làm ngôn sứ thì phải chu toàn sứ mạng

Như vậy, câu chuyện Giê-rê-mi-a được Chúa gọi đi làm ngôn sứ không đơn thuần chỉ có việc Giê-rê-mi-a e dè, ngần ngại, không dám nhận trách nhiệm với lý do “Lạy Chúa, con đây còn quá trẻ, không biết ăn nói” để đức cha Đọc làm điểm tựa cho bài giảng, và từ đó biện minh cho thái độ thinh lặng của các giám mục. Ta hãy lấy một ví dụ khác: Trước câu hỏi có phải nộp thuế cho Xê-da không, Đức Giê-su đã trả lời: “Của Xê-da, hãy trả lại Xê-da”. Nhưng Đức Giê-su đã không dừng lại đó. Vế này chỉ là cái đà dẫn tới vế tiếp theo: “Của Thiên Chúa, hãy trả lại Thiên Chúa”, và vế sau quan trọng hơn vế trước bội phần. Trong cuộc đối thoại giữa Giê-rê-mi-a và Thiên Chúa cũng vậy. Lời mở đầu của Giê-rê-mi-a chỉ mới cho ta thấy con người, cho thấy tình huống. Giê-rê-mi-a đưa ra lý do để thoái thác, nhưng Chúa không chấp nhận. Ngài đưa ra một đảm bảo: “Có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Và liền sau đó Chúa giao sứ mạng như đã nói ở trên.

Khi lời Đức Tổng Bình, hay gần đây là lời Đức Tổng Kiệt bị báo đài Nhà Nước cắt xén thì chúng ta phẫn nộ, nhưng khi chính Lời Chúa cũng bị cắt xén, ta phải hiểu thế nào?

Làm ngôn sứ phải trả giá

Giê-rê-mi-a không chỉ nghe lời Chúa và đi công bố cho anh em, nhưng đã trả giá bằng cả cuộc đời mình. Đọc sách Giê-rê-mi-a, ta thấy ông đã trải qua những thử thách thật là khủng khiếp: Vì mạnh dạn nói thẳng nói thật, tố cáo những sai lầm kể cả của các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo, ông bị các chính khách đương thời nhục mạ, bị các tư tế, đồng nghiệp của ông bách hại, bị kết án là cầu chúc điều dữ cho dân trong khi ông không ngừng cầu xin cho họ, thậm chí bị kết án là toa rập với kẻ thù.

Và không riêng gì Giê-rê-mi-a: Kinh Thánh cho ta rất nhiều ví dụ khác tương tự: Được Chúa gọi đi làm ngôn sứ, đi nói lời Chúa cho dân, thì phải trả giá bằng chính cuộc đời của mình: Ê-li-a bị truy đuổi, xin Chúa cho chết, Chúa không cho chết, lại giao một sứ mạng mới; A-mốt đi rao giảng lời Chúa thì bị đuổi như đuổi tà; Ê-dê-ki-en vợ chết mà không được làm đám tang v.v…

Kết luận

“Lạy Chúa, chúng con không biết ăn nói” là lời đức cha Phao-lô Bùi Văn Đọc mượn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài giảng tại Rô-ma ngày 23-06-2009, mục đích hẳn là để trả lời cho những ai trách móc, bất bình vì các giám mục Việt Nam vẫn im hơi lặng tiếng trước bao nhiêu vấn đề xã hội nhức nhối nổi cộm. Hơn ba tháng đã trôi qua, nhưng những lời than phiền, những tiếng chê bai vẫn không chấm dứt, có khi rất nặng nề. Có lẽ vì thế mà cha Nguyễn Hồng Giáo thấy cần lưu ý công luận đến bài giảng mà ngài cho là quan trọng: “Cứ đọc đi rồi biết !” Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài giảng của đức cha Đọc, nhưng thắc mắc của tôi vẫn chưa được giải toả. Chẳng biết những người khác thì sao?

Sài-gòn, ngày 02 tháng 10 năm 2009

Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm