samedi 2 juillet 2011

Hậu Chí Phèo

Hậu Chí Phèo

Mr. Đỗ - Sau khi đánh chết Bá Kiến trong một cuộc ẩu đả tưng bừng trước nhà Chị Dậu, Chí Phèo nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông của làng Vũ Đại, được đông đảo dân chúng ủng hộ hết mình. Kết thúc trận kịch chiến ấy, Phèo từ một tay bợm nhậu bỗng chốc biến thành người hùng. Trong mắt dân chúng, kể cả một số kẻ thù xưa của Phèo, hắn là một trang hảo hán, là người soi đường chỉ lối.





Trên cương vị mới, Phèo bắt đầu tận hưởng hương vị chiến thắng và thi hành chính sách chăn dân do người anh lớn cai quản làng bên là Lão Hạc tư vấn. Đối với đám bạn nhậu đầu trộm đuôi cướp thuở xưa, ai biết điều thì Phèo cất nhắc lên các vị trí như phụ trách phòng sưu thuế, chỉ huy đội trị an hoặc ít ra cũng cầm loa, gõ mõ. Ai bướng thì Phèo cho vào hợp tác xã, suốt ngày bán mông cho trời, bán mặt cho đất. Đám dân chúng ủng hộ Phèo cũng không khá hơn. Tất cả đều bị lùa vào hợp tác xã. Họ làm lụng quần quật suốt ngày, không còn thời gian để suy nghĩ, thành ra não bộ và lá gan họ teo tóp đến thảm hại.


Đối với tàn quân của Bá Kiến thì khỏi phải nói, Phèo triệt tận gốc. Sợ quá, lũ này di tản sang các làng lân cận. Kẻ không chạy được thì đành ở lại làng Vũ Đại, ngậm đắng nuốt cay như chú hổ bị gã thợ săn Thế Lữ nhốt trong cũi sắt chờ ngày lên bếp lò để hóa thân thành cao hổ cốt.


Chính sách của Phèo thế mà hay. Dân làng Vũ Đại nghe răm rắp. Vì sợ. Khi không đám cận thần của Phèo chỉ đánh rắm một phát cũng có khối người nôn mật xanh mật vàng, chết không kịp ngáp. Làng Vũ Đại tuyệt đối an bình là vì thế.


Nhưng cùng với thời gian, Phèo đối mặt với nhiều mối lo mới. Nhờ tiếp xúc với các làng xã văn minh hơn, đám dân đen Vũ Đại ngày càng khôn ra. Một bộ phận trong số họ vẫn tin Phèo vô điều kiện như con cái tin cha mẹ, nhưng không ít người bắt đầu nghi ngờ Phèo, họ mày mò tìm hiểu bản chất lưu manh trong con người hắn ta. Đám cháu chắt Bá Kiến trong và ngoài làng cũng dần dà tìm cách ngóc đầu dậy. Thậm chí đôi lúc chúng đi lại nghênh ngang, đánh rắm một cách công khai mà chẳng hề nể sợ ai hết. Phèo tức lắm, hắn tìm đủ mọi cách để lập lại trật tự. Hắn vận dụng mọi ngón nghề của một bợm nhậu: đập bàn, dằn ly, xô ghế, thậm chí thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Phèo còn vận thêm mấy chiêu mà người anh lớn là Lão Hạc tư vấn như siết cổ, bịt mồm, bóp mũi. Nhưng chẳng ăn thua.


Giữa lúc tình hình làng Vũ Đại đang nước sôi lửa bỏng, Phèo đang nghiến răng trợn mắt thì Lão Hạc lại xuất hiện cùng mấy con vàng của lão. Lâu nay, cứ mỗi lúc Phèo gặp khó khăn là Hạc ta lại dẫn chó tới để tư vấn cho Phèo cách giải quyết, tất nhiên là có lệ phí hẳn hòi. Lúc thì lão mượn vài cô gái đẹp về đấm lưng, lúc khác lại xin dăm cặp gà tơ về nhắm rượu. Nhưng lần này khác, Hạc ta sấn tới và chẳng nói chẳng rằng lùa nguyên cả bầy trâu của làng Vũ Đại về. Phèo ức, nhưng nhìn lũ vàng nhe nanh trợn mắt của Lão Hạc, hắn ta hồn vía lên mây.


Phèo sợ, nhưng đám dân đen thì không. Họ kéo nhau ra cổng làng Vũ Đại, bắc loa mồm chửi Lão Hạc om sòm. Cả đám con cháu Bá Kiến trong và ngoài làng cũng nổi máu địa phương, đồng tâm hợp lực chửi rủa, rên xiết. Dàn đồng ca Vũ Đại càng hát càng khí thế. Phen này Lão Hạc già nua kia chỉ có đường thủng màng nhĩ mà thôi. Muốn yên thì hãy trả trâu.


Quả thực chưa bao giờ làng Vũ Đại chứng kiến một sự đoàn kết keo sơn đến thế. Khi máu địa phương, lòng tự tôn làng xã nổi dậy, lũ dân đen thật thà, đám bợm nhậu bị thất sủng, một vài kẻ có lương tâm trong số cận thần của Phèo cùng tàn quân Bá Kiến đã dẹp bỏ bất đồng để hướng mũi tấn công về kẻ thù chung có tên là Lão Hạc. Đây cũng là cơ hội vàng cho Phèo ta chấn hưng dân khí, củng cố sức mạnh địa phương, xây dựng tinh thần đoàn kết để đưa làng Vũ Đại tiến lên một tầm cao mới.


Thế nhưng, một mặt do quá khiếp nhược, sợ đám dân đen làm mếch lòng anh Hạc thì nguy to, mặt khác do sợ các thế lực Bá Kiến thuở xưa trỗi dậy và lo rằng dân chúng học được cách đứng lên tranh đấu thì sẽ gây nhiều nguy cơ cho chế độ cai trị gia trưởng của mình, nên Phèo ta quyết dẹp trò chửi rủa. Một mặt hắn bảo với dân làng: "Các con hãy về đi, chuyện anh Hạc đã có cha Chí đây lo. Các con cứ ăn no ngủ kỹ. Mai mốt trâu sẽ tự động về nhà. Đừng tụ tập chửi bới kẻo bị đám con cháu Bá Kiến lợi dụng, làm mất hòa khí giữa Vũ Đại ta và anh Hạc. Thằng Kiến thì các con biết rồi đấy. Nó ác, dâm, đểu. Nó là thằng khốn nạn. Các con phải nhớ điều ấy".


Cùng với lời khuyên giải như cha răn con, Phèo còn cho tay chân ra cổng làng giải tán dân chúng. Sau đó đi điểm mặt các nhân vật chủ chốt để tẩm quất. Hắn còn ra lệnh cho đám lâu la làm nghề đánh kẻng, gõ mõ, vác loa không được chửi Lão Hạc, không hùa theo dân đen, không cho bọn tàn quân Bá Kiến cơ hội lợi dụng, hãy ca ngợi tình đoàn kết giữa Chí Phèo và Lão Hạc.


Biện pháp của Phèo lần này cũng phát huy tác dụng. Vào những ngày tiếp sau đó, chẳng còn mống dân đen nào tụ tập trước cổng làng. Trò chửi bới Lão Hạc tuyệt nhiên không. Một vài kẻ dám ho khan, đánh rắm thì bị tay chân của Phèo đánh đập tơi tả.


Nhưng có một điều Phèo không nhận ra. Đó là giờ đây đã có thêm nhiều người ghét hắn. Đám cháu chắt Bá Kiến đã đành, đám bợm nhậu bị thất sủng chẳng nói làm chi. Ngay trong số dân đen từng tin Phèo vô điều kiện giờ cũng có thêm nhiều người nghi ngờ hắn, thậm chí oán hắn. Phèo đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng để tập hợp dân chúng xây dựng làng Vũ Đại giàu mạnh khiến Lão Hạc không còn dám làm càn.


Giờ đây Phèo đang rất cô độc. Hắn không còn tâm trí nghĩ đến chuyện đòi lại đàn trâu nữa.








* * *




Sau khi dẹp được đám dân làng chửi rủa Lão Hạc, Phèo ta rất khoái chí. Chưa bao giờ hắn thấy rõ được uy quyền của mình như thế này. Giữa lúc hắn đang giương giương tự đắc thì ái thiếp Thị Nở tâu lên:


"Bẩm quan lớn, quan lớn biết tại sao đám dân đen có thể làm loạn không?"


"Ơ, con này hỏi kỳ... Thế tại sao nào?"


"Bẩm, tại chúng biết nói."


"Ơ, người thì phải biết nói chứ."


"Dạ bẩm, tại chúng biết nói nên chúng mới liên hệ với nhau được. Tại chúng biết nói nên chúng mới chửi anh Hạc được. Tại..."


"Thôi...", Phèo đập bàn quát lớn. Đây chính là điều Phèo hiểu rõ nhất. Ngày xưa nếu bị câm thì hắn đã không thể tru tréo trước cổng nhà Bá Kiến mỗi ngày được rồi. Phèo hiểu rõ rằng chính trò chửi bới liên hồi đó đã khiến lão Kiến hết chịu nổi mới dẫn đến trận thư hùng trước nhà Chị Dậu năm nào. Kết cục là Chí Phèo đả bại Bá Kiến để điều hành làng Vũ Đại. Nếu Phèo không biết nói, không thể chửi rủa thì hắn đã không có ngày hôm nay. Quả thực tiếng nói là một thứ vũ khí nguy hiểm.


"Hay!", Phèo thét lên khiến Thị Nở giật nảy mình. "Giỏi, ngươi đúng là ái thiếp của ta. Ngươi đúng là con đàn bà tóc dài mà đầu cũng dài hiếm hoi trên thế gian này. Ngươi chẳng những biết nấu cháo hành mà còn biết trò chơi quyền lực".


Thị Nở bẽn lẽn: "Hổng dám đâu." Đoạn ả nói tiếp: "Thế quan lớn sẽ làm gì nào?"


"Ngươi không phải dạy khôn ta. Ta tự có cách."


Ngay ngày hôm sau, Chí Phèo ra bố cáo bắt dân làng Vũ Đại không được nói, phải câm hoàn toàn. Ai vi phạm sẽ bị cắt lưỡi. Chỉ có Phèo và đám cận thần mới có đặc quyền nói.


Kể từ giờ phút đó làng Vũ Đại im ắng như bãi tha ma. Từ đầu đến cuối làng, người ta gặp nhau chỉ gật gật vài cái coi như "chào xã giao". Lũ trẻ con có lỡ khóc ré lên thì bố mẹ chúng vội vàng dùng tay bịt miệng, lấy giẻ nhét vào hoặc, áp dụng công nghệ hóa màu, dùng băng keo dán miệng. Cũng có vài trường hợp bức bối quá chịu không nổi, ho khan vài tiếng, thế là bị đám thuộc hạ của Phèo cắt lưỡi ngay lập tức.


Tình hình trên kéo dài được một thời gian thì cậu Nam Cao ở cuối làng nghĩ ra một chiêu mới để lách luật: đánh rắm. Số là Chí Phèo chỉ ra lệnh cấm nói chuyện nên việc đánh rắm không bị coi là phạm pháp. Thế là dân Vũ Đại chuyển qua đánh rắm thay cho nói. Người ta quy ước đánh một phát có nghĩa là "hello", đánh hai phát là "good bye", ba phát là than vãn, bốn phát là chửi thề. Vân vân và vân vân.


Phong trào đánh rắm phát triển đến mức nhiều người luyện được các chiêu thức thượng thừa. Người ta chẳng những có thể đánh các câu đơn giản như "chào bác", "chào cô" mà còn có thể đánh "tôi ghét lão Phèo", "lão Phèo thật độc ác". Có người đánh một lúc được vài trăm phát là chuyện thường, y như bắn súng liên thanh vậy. Lũ trẻ con mới mở mắt cũng học đánh rắm. Tình hình đánh rắm tại làng Vũ Đại phải nói là "trăm hoa đua nở", đủ thứ âm thanh, mùi vị, thậm chí màu sắc nữa.


Chuyện này làm cho Phèo và đám thuộc hạ đau đầu nhức óc. Cấm đánh rắm chăng? Phèo phân vân không biết xử trí thế nào. Giữa lúc đó Thị Nở xuất hiện. Thị Nở lâu nay luôn hiện ra đúng lúc và mang theo nhiều phương án cứu rỗi đời Phèo, thuở cơ hàn thì bát cháo hành hoặc cái bánh bèo nhão nhoẹt của thị, còn lúc Phèo có quyền lực thì Nở tư vấn các giải pháp quản lý xã hội vĩ mô.


"Phải cấm dân làng đánh rắm thôi", Phèo phán.


"Ấy chết, cấm nói thì được, cấm đánh rắm thì không. Không nói người ta vẫn có thể sống, còn không đánh rắm thì chỉ có nước vỡ bụng mà chết", Nở phân tích. Thị còn nói với Phèo rằng nếu cấm dân đánh rắm thì làng Vũ Đại sẽ bị các làng bên, trừ làng Lão Hạc, phê phán là gia trưởng, độc tài. Lỡ có ai đó vỡ bụng chết vì ứ hơi thì Phèo sẽ bị phê phán là vi phạm nhân quyền. Thế nên tuyệt đối không được cấm đánh rắm.


"Thế phải làm thế nào?", Phèo hỏi.


"Phải siết chặt quản lý hoạt động đánh rắm", Nở thì thào vào tai Phèo. Sau đó Nở còn nói nhiều thứ nữa, nhưng chỉ cho một mình Phèo nghe thôi.


Ngay ngày hôm sau, Phèo ra bố cáo cho toàn dân làng Vũ Đại: Phàm là người thì ai cũng phải đánh rắm. Đó là quyền lợi thiêng liêng nhất. Làng không cấm. Nhưng do có nhiều kẻ lợi dụng việc đánh rắm để phá hoại trị an nên từ nay làng sẽ siết chặt quản lý hoạt động đánh rắm. Tất cả mọi người chỉ được đánh rắm ở mức độ vừa phải và rắm phải thơm. Ai đánh rắm to, thối sẽ bị phạt nặng. Ai vi phạm nhiều lần sẽ bị trát lỗ ~~~, khỏi đánh rắm luôn.


Để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp, Phèo thành lập một nhóm đặc nhiệm với thành viên là các bợm nhậu biết điều từng vào sinh ra tử với hắn ở tất cả quán xá trong làng. Ngày ngày đám này đi khắp làng dỏng tai lên nghe xem có ai đánh rắm lớn, lâu lâu lại khịt khịt mũi xem kẻ nào đánh rắm thối để đem ra trừng trị.


Kể từ đó hoạt động đánh rắm ở làng Vũ Đại đi vào khuôn phép thấy rõ. Các cao thủ đánh rắm trong làng không còn đất dụng võ. Bí quyết đánh rắm từng chuỗi dài như bắn súng máy ngày càng mai một, đi dần đến chỗ thất truyền.


Mr. Đỗ
http://blogmrdo.blogspot.com/2007/12/hau-chi-pheo-tap-2.html

mardi 21 juin 2011

Which side are you on?

which side are you on?

Trong cuốn hồi ký "Why Vietnam" của L.A Patti, nguyên là trung tá tình báo của Mỹ tại Đông Dương vào cuối thế chiến thứ hai, một người Mỹ đầu tiên và cũng gần như duy nhất trong chính quyền Mỹ có liên hệ trực tiếp với ông Hồ Chí Minh, có kể lại một khoảnh khắc gây ấn tượng không thể mờ phai trong suốt cuộc đời ông ta. Lúc đó đã hết hy vọng xây dựng được một mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, vốn chẳng để ý gì đến xứ Đông Dương xa xôi, lại càng không thể đem đánh đổi một Việt Nam lạc hậu lúc đó chưa là gì trên bản đồ thế giới với tình đồng minh của người Pháp, vốn rất cần cho liên minh Mỹ, Anh trong việc kiềm chế sức mạnh của Liên Xô tại châu Âu sau thế chiến thứ hai. Sự nghiệp dành độc lập của Việt Nam lúc đó thực sự là đơn côi, dù trước đó đã có những nền tảng nhất định trong việc hợp tác với lực lượng OSS của Mỹ (tiền thân của CIA) trong việc kháng Nhật tại Đông Dương (Những tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Việt Nam năm 1945, nhận được sự huấn luyện và viện trợ vũ khí của cơ quan OSS Mỹ từ Côn Minh, TQ). Ngày 30/09/1946, lúc tình thế Đông Dương đã ở bên bờ vực chiến tranh, một cuộc chiến Pháp - Việt chắc chắn sẽ xảy ra, A Patti đến chào từ biệt ông Hồ. Trong những tháng trước đó, ông Hồ đã nhiều lần gửi thư cho tổng thống Mỹ lúc đó là Truman, mong tìm kiếm được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp dành độc lập của dân tộc mình nhưng vô vọng. Mỹ vào thời điểm ấy đã chọn ủng hộ người Pháp. Chiến tranh bùng nổ sau đó 3 tháng, kết thúc vào năm 54 với người Pháp tại Điện Biên Phủ và cuốn người Mỹ vào một cuộc chiến dằng dai cho đến khi họ phải rút đi vào năm 73.

Lời tâm sự cuối cùng của ông Hồ với Patti về cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam: "Tôi sẽ buộc phải tìm cho dân tộc mình một đồng minh, nếu đó không phải là Mỹ thì sẽ phải là một đồng minh khác".

Lịch sử xô đẩy ông Hồ đến việc chọn lựa người TQ và người Nga làm đồng minh trong diễn biến của hai cuộc chiến tranh nối tiếp ở Việt Nam. Ông đã không có lựa chọn khác vì không thể để dân tộc đi tới một mình trong cuộc chiến quá chênh lệch về cán cân lực lượng. Ông Hồ đúng khi tìm được độc lập cho dân tộc mình, nhưng những người kế tục ông sau đó phạm nhiều sai lầm, khiến nền độc lập ấy đi kèm với một Việt Nam chậm tiến và nghèo đói kéo dài nhiều năm sau chiến tranh, trong lúc đại bộ phận những nước xung quanh đều mạnh mẽ vươn lên.

Vinh quang trong chiến tranh của Việt Nam, sau 30 năm, trở thành điều nực cười khi so với sự phồn thịnh của các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonexia, Malaysia ... và đặc biệt là với một thế lực mạnh mẽ trỗi dậy và đang đe doạ cả Á Châu là Trung Quốc.

Câu chuyện về cuộc chiến và lựa chọn của ông Hồ đã thuộc về thế kỷ trước, thế kỷ 20, một thế kỷ ghi dấu ấn với riêng Việt Nam bởi hai cuộc chiến tranh thảm khốc nối tiếp kéo dài 30 năm, và gần hai thập kỷ nghèo đói kế tiếp sau đó của đất nước. Trong tình thế buộc phải lựa chọn, ông Hồ đã tìm ra cho mình một sự lựa chọn cho đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi về tính đúng sai.

Năm 2009, trước một Trung Quốc đang lên và ngày càng trở thành một hiểm hoạ, người Việt Nam lại một lần nữa phải trả lời câu hỏi "Which side are you on?"

Thế giới ngày nay nhìn nhận trực tiếp có lẽ chỉ còn hai siêu cường trên thực tế. Một nước Mỹ hùng mạnh đứng đầu thế giới gần 100 năm qua, quyền lực dù lung lay nhiều trong những năm gần đây nhưng vẫn là cường quốc số 1 hành tinh. Bên cạnh đó, là một Trung Hoa khổng lồ với dân số 1,4 tỷ người, chiếm hơn 1/6 dân số địa cầu, và đang vươn lên ngày một mạnh mẽ về kinh tế cũng như quân sự. Nhiều dự báo cho rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Trung Quốc, và quốc gia này sẽ thế chân Mỹ thành nền kinh tế đứng đầu thế giới sau 30 hoặc 40 năm nữa. Tất nhiên mọi dự đoán về tương lai đều có thể là sai lầm, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là Trung Quốc và Mỹ đã trở thành hai thế lực lớn nhất hành tinh hiện nay, và cuốn các nước khác vào một ván bài có tính lựa chọn khi phải tìm lấy cho mình một bên để đứng.

Câu cửa miệng sáo rỗng dạng "chúng ta muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới" chỉ là lời sáo ngữ không thể lừa ai và cũng chẳng thể dối chính mình. Làm bạn với tất cả, cũng đồng nghĩa với việc chẳng có người bạn nào. Và đó chính là thực trạng của Việt Nam hiện nay: Một quốc gia nhỏ yếu, chậm phát triển, và cô đơn giữa thế giới này khi không có lấy một đồng minh đúng nghĩa (Có thể nhắc đến người Lào chăng? nhưng Lào rồi cũng sẽ rất nhanh không đứng cạnh Việt Nam, khi Trung Quốc đang không ngừng khuyếch trương ảnh hưởng ở đó)

Trong cuộc chơi với người Trung Quốc suốt nhiều năm qua, với Việt Nam, luôn là một cuộc chơi nhẫn nhịn. Trung Quốc giúp Việt Nam nguồn súng đạn trong chiến tranh với một động cơ cũng chẳng trong sáng gì. Giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc không muốn ranh giới của thế giới phương Tây tiến sát đến biên giới của họ. Ở Triều Tiên, Trung Quốc trực tiếp tham chiến, chấp nhận trả giá để dựng lên một chính phủ Bắc Triều Tiên trung thành làm phên dậu tại Đông Á cho Trung Quốc trong suốt 70 năm qua. Một bức tranh tương phản tại Triều Tiên, miền Bắc là đệ tử của Trung Quốc, được cai trị bởi một chính thể độc tài toàn trị có tính phản động hàng đầu trên thế giới, một nền chính trị có tính cha truyền con nối, dân chúng chết đói hàng năm vì chưa bao giờ đủ ăn, còn chính thể để tồn tại thì tìm mọi cách đầu tư vào quân đội để duy trì sức cai trị cho chế độ. Nam Triều Tiên, ngược lại, hoà nhập vào thế giới văn minh và hiện là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới, nằm trong nhóm nước phát triển OECD.

Với một động cơ tương tự khi Trung Quốc muốn giúp Việt Nam trong cuộc chiến chống người Pháp và người Mỹ, nhằm có một khoảng đệm an toàn cho biên giới quốc gia của họ với thế giới phương Tây. Trung Quốc cũng muốn Việt Nam phân đôi giống như Nam - Bắc Triều Tiên, để duy trì sát tại biên giới mình một quốc gia nhỏ yếu và vâng lời. Ý thức độc lập thống nhất của người Việt Nam mạnh mẽ hơn ý chí áp đặt của Trung Quốc. Và kết quả là người Việt Nam đã thống nhất đất nước của mình bất chấp những cuộc mặc cả đi đêm của Trung Quốc sau lưng Việt Nam. Năm 1974, ngay khi cuộc chiến Việt Nam sắp chấm dứt, Trung Quốc tận dụng thời cơ hai miền Nam Bắc Việt Nam đánh nhau, chớp nhoáng chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Khi thấy không thể chặn lại được sự thống nhất đất nước của người Việt, Trung Quốc dựng lên chế độ Khơme đỏ tại Campuchia, tìm mọi cách xúi lực lượng này làm tiên phong gây chiến với Việt Nam. Việt Nam phản đòn, chế độ Pôn Pốt nhanh chóng bị đập tan, Trung Quốc công nhiên lộ mặt gây chiến trực tiếp với Việt Nam. Cuộc chiến tranh tàn bạo năm 1979 nổ ra, trước những thiệt hại lớn, Đặng Tiểu Bình buộc phải rút quân về, dù sau đó xung đột biên giới vẫn dai dẳng nổ ra giữa hai bên. Trong cùng thời kỳ, Đặng thành công đổi mới đưa Trung Quốc đi lên, trong lúc lãnh đạo Việt Nam sai lầm trong con đường phát triển khiến đất nước ngày càng kiệt quệ. Năm 1988, khi Việt Nam đang ở điểm đáy của sự tụt hậu và đói nghèo, tận dụng thời cơ Liên Xô là đồng minh duy nhất của Việt Nam lúc đó đang suy yếu đến tận rìa sụp đổ, Đặng xua quân gây cuộc chiến chớp nhoáng tại Trường Sa và chiếm 8 đảo tại quần đảo này của người Việt Nam.

Nhiều chục năm quan hệ với Trung Quốc, là nhiều chục năm cay đắng đối với Việt Nam. Cộng thêm với một lịch sử hàng nghìn năm liên tiếp phải đánh nhau với những đạo quân xâm lược tràn từ Trung Quốc sang. Một lịch sử luôn gắn với những bài học trả bằng xương máu.

Năm 2009, thế giới khủng hoảng, Trung Quốc mạnh mẽ vươn lên với tư cách của một siêu cường. Đối kháng với Trung Quốc thật là một sai lầm, bởi quốc gia này ngày nay quá mạnh. Có lẽ dễ dàng hơn nhiều nếu chọn cách đi bên cạnh Trung Hoa, bởi đối đầu với một quốc gia khổng lồ kề sát bên mình là một lựa chọn rất thiếu khôn ngoan.

Vấn đề là, Trung Quốc không muốn ai đi cạnh bên mình một cách đích thực. Trong lúc rêu rác những lời tuyên ngôn về tôn trọng hoà bình, thì Trung Quốc đầu tư càng lúc càng mạnh cho việc hiện đại hoá quân sự và quốc phòng, đến mức ngày nay đã thành một thế lực đủ sức đe doạ Á Châu. Trong lúc tuyên truyền về tình thân thiện với các quốc gia láng giềng, thì Trung Quốc đồng thời cho vẽ bản đồ chiếm gần trọn lãnh hải của 6 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong lúc nói những lời đường mật về hợp tác cùng phát triển, thì Trung Quốc tìm mọi cách thọc tay vào các nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước xung quanh, đổ công nghệ khai thác lạc hậu vào những đất nước này, di dân xâm thực văn hoá, bòn rút tài nguyên và trút vào đó hiểm hoạ môi trường. Trong lúc thế giới đang nóng lên, Trung Quốc cho xây đập chặn hầu hết các con sông dẫn nước qua các quốc gia dưới hạ lưu, bất chấp điều đó gây các thảm hoạ về sinh thái và cuộc sống cho dân cư những quốc gia đó. Và Việt Nam, cay đắng thay lại là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất từ những chính sách tàn bạo đó của người Tàu.

Năm 2009, Trung Quốc tiến hành phong toả gần trọn vùng biển Đông của Việt Nam, kiểm soát nó trên thực tế, quét sạch tàu cá của Việt Nam ra khỏi những vùng mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền bất chấp luật pháp quốc tế, đồng thời triển khai những chương trình khai thác thăm dò tài nguyên đầy tham lam. Năm 2009, Trung Quốc cho khánh thành một loạt đập ngăn nước tại các nhánh chính của dòng sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, đẩy các quốc gia dưới hạ lưu như Lào, Thái Lan, Campuchia trước hậu quả nghiêm trọng của việc suy thoái về nông nghiệp và thuỷ sản cũng như môi trường. Hậu quả nghiêm trọng nhất đến với Việt Nam, khi toàn bộ vựa lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long đứng trước mối đe doạ trực tiếp và nghiêm trọng nhất do việc thiếu hụt nước và phù sa từ sông Mê Kong. Nhiều chuyên gia đánh giá, Việt Nam sẽ phải tốn nhiều chục tỷ USD để làm các công trình thuỷ lợi, xây các hồ chứa nước và hệ thống đê ngăn xâm thực nước mặn từ biển để khắc phục những hành vi này của Trung Quốc. Cũng năm 2009, Trung Quốc tìm mọi cách gây sức ép để khai thác các nguồn tài nguyên thô của Việt Nam, đặc biệt là Bauxite tại Tây Nguyên, một kế hoạch đang chịu sự phản đối gay gắt của hầu hết trí thức Việt Nam trước những hậu quả về mặt môi trường, hiệu quả kinh tế không đi đôi với số vốn đầu tư, và đặc biệt là hiểm hoạ về mặt an ninh khi Trung Quốc hiện diện tại mảnh đất chiến lược này.

Việt Nam muốn đi cạnh Trung Quốc hơn ai hết, nếu quốc gia ấy thật sự để cho những nước khác có thể tồn tại cạnh mình và vẫn có cơ hội phát triển đi lên. Nhưng tiếc thay, Trung Quốc đã và đang chỉ chấp nhận cho những nước nhỏ yếu tồn tại cạnh mình với điều kiện thôn tính được lãnh thổ và tài nguyên của những nước đó. Nói cách khác, Trung Quốc để các dân tộc khác tồn tại cạnh mình với điều kiện tước đoạt được tương lai phát triển của những dân tộc ấy, kìm họ trong vòng lạc hậu và đói nghèo để luôn dễ bảo.

Trung Quốc, cả về lịch sử cũng như hiện tại, không cho cơ hội để Việt Nam có thể chọn họ là một đồng minh có thể chấp nhận được.

Người Việt Nam một lần nữa phải chọn cho mình câu trả lời. Để sinh tồn, để có tương lai phát triển, để giữ được chủ quyền lãnh thổ và tránh những hậu quả lâu dài về môi trường cho con cháu mai sau, Việt Nam phải tìm cho mình một lối đi riêng, một chính quyền và một thể chế đáp ứng được đòi hỏi có tính sinh tồn về lợi ích dân tộc và chủ quyền, và những người đồng minh đủ mạnh cho đến khi đất nước phát triển đến một mức đủ để có thể bảo vệ chính mình.

Which side are you on?