(Mc 7:1-8, 14-15, 21-23)
“Con chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng con hằng liên lỉ ngợi khen Người.” (TV 73) Lời Thánh Vịnh ấy cùng nhiều lời khác trong Kinh Thánh cho thấy dân Thiên Chúa qua muôn ngàn thế hệ vẫn không ngừng mở miệng ca ngợi và cầu khẩn cùng Thiên Chúa của mình. Nhưng trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu lại dùng lời ngôn sứ Isaia mà quở trách người Pharisiêu: “Dân này thờ Ta bằng môi miệng”. Vậy thì rõ ràng Chúa không trách mắng họ vì việc dùng môi miệng thờ phượng Chúa, mà điều đáng bị trách mắng nằm ở câu sau: “lòng chúng thì xa Ta”. Vâng, việc cầu nguyện, hay thờ phượng bằng lời là điều cần thiết và cao quí, Chúa Giêsu đã không ngừng nhắc đi nhắc lại. Nhưng nếu lòng trí xa Chúa khi cầu nguyện thì lại là điều đáng phàn nàn. Vậy thế nào là lòng trí xa Chúa?
Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi đó. “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Nếu mục tử nào không quan tâm đến Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh mà chỉ cố làm sao để lấy lòng người trần thế, nhất là lấy lòng những kẻ cao ngạo, ác đức và chống đối Thiên Chúa, thì lúc ấy họ bị quở trách. Khi họ ngồi vào chiếc ghế mà thế gian kê sẵn, đứng lên bắt tay với cường quyền và quên mất lời răn dạy của Thiên Chúa, quên mất người nghèo chung quanh họ, thì họ đang “làm theo giới luật phàm nhân”.
Về phần dân Thiên Chúa, khi vì sợ hãi hay vì lợi lộc riêng mà không giữ luật Chúa, lại nghe theo những qui định, những thúc ép của các thế lực trần gian chung quanh, thì họ sẽ xa Thiên Chúa vì chính họ đã tự do chọn lựa điều gian ác. Trong một xã hội mà người Công giáo là công dân hạng hai, không có chỗ đứng nào chính thức, thì người môn đệ Chúa dễ bị cám dỗ chạy theo tiếng gọi phía đối nghịch để dễ tồn tại. Nhưng chính lúc cố gắng len lỏi để tồn tại, họ đánh mất sự sống thật của mình.
Cách đây ít năm, tôi có trách nhiệm phỏng vấn nhân viên mới cho một Công ty bảo hiểm ngoại quốc hoạt động ở Sàigòn. Một anh sinh viên mới ra trường nộp hồ sơ và được mời phỏng vấn. Sau khi anh ta đã trả lời các câu hỏi, tôi nhận thấy anh ta không đủ tiêu chuẩn, nên hỏi thêm một câu để biết đời sống tôn giáo của anh ta có giúp gì cho chính anh ta không. “Xin bạn vui lòng cho biết bạn có theo tôn giáo nào không và bạn nghĩ gì về tôn giáo?” Anh ta hăng hái nói: “Em đã học môn triết Mác Lê và biết tôn giáo là thuốc phiện mê dân. Ba mẹ em muốn em phấn đấu vào đảng như ba mẹ nên em không thích các tôn giáo”.
Nghe đến đó, tôi đưa anh ta xem bảng ghi các tiêu chí đánh giá và mỉm cười nói nhẹ nhàng: “Bạn tưởng công ty này giống các công ty nhà nước nên bạn nói mạnh quá. Thật ra công ty này là một định chế tài chính, và chúng tôi đánh giá cao những người có tôn giáo. Rất tiếc vì câu trả lời của bạn, bạn mất 100 điểm theo thang điểm mà công ty qui định, chứ nếu nếu bạn nói khác thì cũng đỡ cho bạn”. Nghe vậy, anh ta thay đổi ngay: “Dạ hồi nãy em nói là theo bài học sách vở, chứ cá nhân em đề cao tôn giáo lắm ạ và em nghĩ tôn giáo là rất cần thiết”. Tôi nói: “Cám ơn bạn, nhưng hy vọng sẽ có dịp khác chúng ta trao đổi lại”.
Rõ ràng cái lối giáo dục này chẳng biết làm sao mà khiến con người coi thường các giá trị tinh thần, lại thay đổi nhanh chóng mà lại chẳng bao giờ dám chắc chắn gì về chính mình. Khi người ta “theo giới luật phàm nhân” thì họ xa Chúa vời vợi, và khi xa Chúa thì chính họ tách mình ra khỏi những cộng đồng biết đề cao các giá trị nhân bản.
Chúa Giêsu nói: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Truyền thống người phàm là truyền thống mang tính hình thức, chiếu lệ, giả hình. Đó còn là loại truyền thống đề cao lòng hận thù, hành vi liều lĩnh, thô bạo. Truyền thống người phàm còn là những “bửu bối” để tiến thân trong xã hội mà coi thường lương tâm và đạo đức. Mà đã theo truyền thống người phàm thì không thể tuân giữ lề luật Thiên Chúa.
Người Công giáo thời đại này vẫn bị cám dỗ hành xử theo thế gian, theo các truyền thống phàm nhân. Và cả những vị đã được mời gọi sống đời tận hiến cũng không thiếu những lúc hoặc vì bị “nắm tẩy” hoặc vì ham danh ham lợi mà hy sinh làm tôi tớ cho phàm nhân, cho quyền lực phù vân và cho những người cầm roi quất mạnh vào thân mình mầu nhiệm Đức Kytô.
Theo Chúa không phải là một cam kết xã hội mà trước hết là một khế ước tình yêu. Mà đã nói đến tình yêu là nói đến cái gì sâu xa nhất của cuộc đời con người. Đã chọn lựa yêu thương thì người môn đệ Chúa hướng tới mà không quay lại để bám víu vào bất cứ cái gì chung quanh mình, bởi so với gia sản mà mình đã chọn thì “giới luật phàm nhân” chẳng là gì.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn lựa chính xác và đã kiên trung với chọn lựa tuyệt vời ấy. Xin Mẹ dẫn chúng con đi vững vàng trên lối đi mà Chúa đã chỉ cho chúng con, để chúng con đi theo Chúa mà không để lòng mình xa Chúa.
Gioan Lê Quang Vinh (27.8.2009)
vendredi 28 août 2009
mercredi 26 août 2009
Thư chung của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt
Thư chung của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt
Gửi Cộng đồng Dân Chúa Hà Nội
Nhân dịp Năm Học Mới và Năm Linh Mục
Hà nội ngày 10 tháng 08 năm 2009
Thưa Anh Chị Em,
Mỗi năm đến ngày khai trường cả xã hội rộn lên niềm hi vọng. Hi vọng, vì học hành là tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững của gia đình và đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay không phải phục vụ chiến tranh, có điều kiện hơn để được ăn được học, sẽ thăng tiến và giúp đất nước thăng tiến. Mỗi mùa khai trường là một mùa hi vọng. Hi vọng mỗi năm học là một cánh cửa mở ra tương lai tươi sáng.
Nhưng những hi vọng ấy không làm giảm bớt những lo âu ngày càng nhiều và càng nặng gánh. Lo vì cứ mỗi năm chi phí cho việc nhập học lại tăng lên. Lo vì nạn chạy trường ngày càng phổ biến khiến cho ngày nhập học trở thành ngày buồn tủi cho những trẻ em và những gia đình không có điều kiện. Nhưng lo nhất là chất lượng giáo dục. Chất lượng tri thức không chắc có với những chương trình liên tục cải cách nhưng vẫn liên tục sai sót, với nạn học vẹt, với nạn dạy cho hết giờ, với nạn dạy thêm học thêm nặng nề cả về tinh thần lẫn kinh tế. Đáng quan ngại nhất là chất lượng đạo đức. Làm sao không lo âu khi trường học đáng lẽ phải là nơi gương mẫu về đạo đức lại là nơi mà sự gian dối trở thành bình thường trong thi cử, làm bài và cả trong ứng xử. Làm sao không lo âu khi trường học không dạy môn lễ phép lịch sự, thiếu môn học đạo đức, không quan tâm đến môn học làm người.
Giáo dục hôm nay, Giáo hội và xã hội ngày mai. Phải có nền giáo dục toàn diện đào tạo nên những con người có học thức và có đạo đức mới mong xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng xã hội chân thật, công bằng, tự do và bác ái. Vì thế tôi tha thiết kêu gọi anh chị em, các giáo xứ và các gia đình, đừng khoán trắng việc giáo dục con em cho nhà trường, nhưng hãy lo liệu cung cấp cho con em mình nền giáo dục Kitô giáo cơ bản. Đó là nền giáo dục giúp phát triển con người toàn diện, không chỉ có thân xác khỏe mạnh, trí tuệ thông minh mà quan trọng trên hết phải có tâm hồn đức hạnh. Đặc biệt hãy dạy cho con em mình tôn trọng sự thật, sống lương thiện theo lương tâm và biết tôn trọng lợi ích chung là những điều rất cần thiết mà xã hội hôm nay đang thiếu thốn trầm trọng. Đức Thánh Cha thấu hiểu xã hội Việt nam, nên trong bài huấn từ nhân dịp Hội đồng Giám mục Việt nam viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ vừa qua, đã nhắn nhủ chúng ta : “Các gia đình hãy dạy cho con cái biết sống theo lương tâm ngay thẳng, trong sự liêm chính và sự thật, như thế các gia đình công giáo sẽ trở nên trung tâm các giá trị và đức tính nhân bản… Và khi xây dựng đời sống trên nền đức ái, sự liêm chính và quý trọng công ích, người giáo dân đích thực chính là những người công dân tốt”.
Việc giáo dục không phải là truyền đạt một kiến thức nhưng là trao ban một sự sống vì thế cần phải có gương sáng. Không thể dậy trẻ em sống lương thiện nếu người lớn cứ sống gian dối. Các bậc phụ huynh nhất là các vị lãnh đạo tinh thần hãy nêu gương đời sống đức tin sống động thể hiện trong đời sống công bằng, bác ái, quảng đại, vị tha. Có đức tin, con người sẽ có lương tâm trong sáng và sẽ biết làm những điều tốt đẹp. Đó chính là khởi điểm quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục thế hệ tương lai, giáo dục để trẻ em nên người và biết làm người trước khi làm người trí thức. “Tiên học lễ hậu học văn” là thế.
Trong chiều hướng đó Đức Thánh Cha đã chọn thánh Gioan Maria Vianney làm mẫu gương của các linh mục khi mở Năm Linh Mục. Có nhiều người thắc mắc tại sao Đức Thánh Cha Bênêđíchtô 16, một học giả lỗi lạc, một trí thức siêu việt lại chọn thánh Gioan Maria Vianney, một linh mục kém học thức làm mẫu gương các linh mục.Đó là vì Đức Thánh Cha muốn giải quyết tận căn cuộc khủng hoảng linh mục hiện nay. Cuộc khủng hoảng linh mục hiện nay không phải về trí thức nhưng về tu đức. Cốt lõi của đời sống linh mục không phải là họat động bên ngoài nhưng là sống với Chúa và cứu độ các linh hồn. Linh mục là nhà đào tạo các vị thánh và là người dậy con đường thánh thiện. Vì thế chính linh mục phải nên thánh trước. Thánh Gioan Maria Vianney là tấm gương sáng chói về đời sống linh mục thánh thiện, đặc biệt ở ba điểm sau :
Đời sống cầu nguyện liên lỉ. Thánh nhân là vị linh mục say mê cầu nguyện. Từ sáng sớm khi nhà thờ chưa có bóng người, ngài đã xách đèn ra nhà thờ cầu nguyện. Đặc biệt yêu mến Thánh Thể nên ngài quì gối hàng giờ trước Thánh Thể mà không cảm thấy mệt mỏi. Không chỉ cầu nguyện lâu giờ nhưng còn ở cường độ cao, ngài kết hợp đến hòa nhập với Chúa Giêsu Thánh Thể “như hai cây nến sáp chảy hòa quyện vào nhau” trở nên đồng hình đồng dạng, không thể phân biệt và không thể tách biệt được nữa. Quỳ trước Thánh Thể, khuôn mặt ngài biến đổi nên tươi sáng trong tâm trạng chan hòa hạnh phúc. Ngài luôn thưa với Chúa : “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Con chỉ có một nguyện ước là được yêu mến Chúa cho đến hơi thở cuối cùng của đời con”. Ngài coi cầu nguyện là phương thế đầu tiên, phương thế duy nhất và là phương thế cuối cùng giúp việc tông đồ sinh hoa kết quả. Nên ngay từ khi được sai về giáo xứ Ars khô khan nguội lạnh, việc đầu tiên ngài làm là cầu nguyện cho giáo dân trong xứ. Nhờ sống thân mật với Chúa mà ngài tìm được con đường đi vào tâm hồn con người, dẫn đưa được nhiều người về với Chúa.
Đời sống khổ chế nhiệm nhặt. Để tăng cường cho lời cầu nguyện, thánh nhân sống một đời sống kỷ luật, mực thước và khắt khe với bản thân. Cặn kẽ giữ ba lời khuyên Phúc Am, ngài đặc biệt sống đơn sơ khó nghèo. Không chỉ đơn sơ trong đời sống với y phục và đồ dùng giản dị, ngài còn ăn uống kham khổ và tìm nhiều cách để hãm mình phạt xác. Có thời gian ngài tự nấu ăn. Và món ăn duy nhất của ngài là khoai luộc. Nghiêm ngặt với bản thân nhưng ngài rất rộng rãi bao dung đối với người khác. Thời giờ của ngài rất khít khao, nhưng khi giáo dân cần đến ngài sẵn sàng dành nhiều thời giờ phục vụ phần linh hồn cho họ. An uống đạm bạc, nhưng ngài đem trẻ mồ côi về nuôi và chăm sóc cho các em cả phần hồn lẫn phần xác.
Đời sống phục vụ quên mình. Không hề đi du lịch đây đó, nhưng ngài thường xuyên thăm viếng giáo dân, đặc biệt thăm viếng và chăm sóc trẻ mồ côi. Không có phương tiện giải trí nhưng ngài mở rộng cửa đón tiếp khác hành hương. Mỗi ngày ngài đón tiếp hàng trăm người đến xin xưng tội. Có năm ngài đón tiếp hàng trăm ngàn người. Và ngài không ngần ngại ngồi trong tòa giải tội 18 giờ một ngày để phục vụ phần linh hồn cho giáo dân từ khắp nơi tuôn đến. Ngài đã chết vì giải tội quá mệt mỏi. Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô đệ nhị gọi ngài là vị tử đạo của tòa giải tội. Sở dĩ ngài chăm lo phục vụ giáo dân đặc biệt trong cử hành bí tích như thế vì ngài tha thiết với việc thánh hóa giáo dân. Ngay từ khi bước vào cổng làng ngài đã nói với em bé đầu tiên mà ngài gặp : “Cha sẽ chỉ cho con đường về Nước Trời”. Tha thiết với việc nên thánh của giáo dân, chính bản thân ngài cũng không ngừng phấn đấu nên thánh vì ngài hiểu rằng linh mục phải nên thánh mới có thể giúp giáo dân nên thánh. Ngài nói : “ Ở nơi nào có dấu chân vị thánh đi qua, Chúa cũng đi qua nơi ấy với vị thánh”.
Chính vì ý thức điều cốt yếu của đời sống linh mục và chăm lo rèn luyện những điều cốt lõi đó mà thánh Gioan Maria Vianney, một linh mục kém về trí thức đã gặt hái được những kết quả lớn lao trong việc tông đồ. Tấm gương của ngài nhắc nhở chúng ta hãy học cho biết đâu là bổn phận quan trọng nhất trong đời và hãy hết lòng chăm lo chu toàn bổn phận đó. Rochefoucauld, một triết gia Pháp nói : “Trên đời có ba thứ dốt. Một là không biết những điều cần phải biết. Hai là biết những điều không cần biết. Ba là không biết rõ những gì mình đang biết”. Nhân dịp đầu năm học mới và Năm Linh Mục chúng ta hãy noi gương thánh Gioan Maria Vianney, biết học làm người và học nên thánh. Đó là những bổn phận quan trọng nhất của chúng ta. Đó chính là cái học nền tảng, là yếu tố quyết định mọi thành công của con người, của Giáo hội và của xã hội.
Tôi phó dâng các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh, các thầy cô giáo, các sinh viên học sinh trong tay Mẹ Maria. Xưa kia Mẹ đã góp phần đào tạo Chúa Giêsu, xin Mẹ trong năm học mới và Năm Linh Mục này đào tạo chúng ta nên giống Chúa Giêsu, nên hình ảnh của Chúa Giêsu, nên cánh tay và trái tim nối dài của Chúa Giêsu, để chúng ta xứng đáng là dụng cụ của Chúa trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, phục vụ hạnh phúc chân chính của mọi người.
Thân ái chào anh chị em.
Gửi Cộng đồng Dân Chúa Hà Nội
Nhân dịp Năm Học Mới và Năm Linh Mục
Hà nội ngày 10 tháng 08 năm 2009
Thưa Anh Chị Em,
Mỗi năm đến ngày khai trường cả xã hội rộn lên niềm hi vọng. Hi vọng, vì học hành là tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững của gia đình và đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay không phải phục vụ chiến tranh, có điều kiện hơn để được ăn được học, sẽ thăng tiến và giúp đất nước thăng tiến. Mỗi mùa khai trường là một mùa hi vọng. Hi vọng mỗi năm học là một cánh cửa mở ra tương lai tươi sáng.
Nhưng những hi vọng ấy không làm giảm bớt những lo âu ngày càng nhiều và càng nặng gánh. Lo vì cứ mỗi năm chi phí cho việc nhập học lại tăng lên. Lo vì nạn chạy trường ngày càng phổ biến khiến cho ngày nhập học trở thành ngày buồn tủi cho những trẻ em và những gia đình không có điều kiện. Nhưng lo nhất là chất lượng giáo dục. Chất lượng tri thức không chắc có với những chương trình liên tục cải cách nhưng vẫn liên tục sai sót, với nạn học vẹt, với nạn dạy cho hết giờ, với nạn dạy thêm học thêm nặng nề cả về tinh thần lẫn kinh tế. Đáng quan ngại nhất là chất lượng đạo đức. Làm sao không lo âu khi trường học đáng lẽ phải là nơi gương mẫu về đạo đức lại là nơi mà sự gian dối trở thành bình thường trong thi cử, làm bài và cả trong ứng xử. Làm sao không lo âu khi trường học không dạy môn lễ phép lịch sự, thiếu môn học đạo đức, không quan tâm đến môn học làm người.
Giáo dục hôm nay, Giáo hội và xã hội ngày mai. Phải có nền giáo dục toàn diện đào tạo nên những con người có học thức và có đạo đức mới mong xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng xã hội chân thật, công bằng, tự do và bác ái. Vì thế tôi tha thiết kêu gọi anh chị em, các giáo xứ và các gia đình, đừng khoán trắng việc giáo dục con em cho nhà trường, nhưng hãy lo liệu cung cấp cho con em mình nền giáo dục Kitô giáo cơ bản. Đó là nền giáo dục giúp phát triển con người toàn diện, không chỉ có thân xác khỏe mạnh, trí tuệ thông minh mà quan trọng trên hết phải có tâm hồn đức hạnh. Đặc biệt hãy dạy cho con em mình tôn trọng sự thật, sống lương thiện theo lương tâm và biết tôn trọng lợi ích chung là những điều rất cần thiết mà xã hội hôm nay đang thiếu thốn trầm trọng. Đức Thánh Cha thấu hiểu xã hội Việt nam, nên trong bài huấn từ nhân dịp Hội đồng Giám mục Việt nam viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ vừa qua, đã nhắn nhủ chúng ta : “Các gia đình hãy dạy cho con cái biết sống theo lương tâm ngay thẳng, trong sự liêm chính và sự thật, như thế các gia đình công giáo sẽ trở nên trung tâm các giá trị và đức tính nhân bản… Và khi xây dựng đời sống trên nền đức ái, sự liêm chính và quý trọng công ích, người giáo dân đích thực chính là những người công dân tốt”.
Việc giáo dục không phải là truyền đạt một kiến thức nhưng là trao ban một sự sống vì thế cần phải có gương sáng. Không thể dậy trẻ em sống lương thiện nếu người lớn cứ sống gian dối. Các bậc phụ huynh nhất là các vị lãnh đạo tinh thần hãy nêu gương đời sống đức tin sống động thể hiện trong đời sống công bằng, bác ái, quảng đại, vị tha. Có đức tin, con người sẽ có lương tâm trong sáng và sẽ biết làm những điều tốt đẹp. Đó chính là khởi điểm quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục thế hệ tương lai, giáo dục để trẻ em nên người và biết làm người trước khi làm người trí thức. “Tiên học lễ hậu học văn” là thế.
Trong chiều hướng đó Đức Thánh Cha đã chọn thánh Gioan Maria Vianney làm mẫu gương của các linh mục khi mở Năm Linh Mục. Có nhiều người thắc mắc tại sao Đức Thánh Cha Bênêđíchtô 16, một học giả lỗi lạc, một trí thức siêu việt lại chọn thánh Gioan Maria Vianney, một linh mục kém học thức làm mẫu gương các linh mục.Đó là vì Đức Thánh Cha muốn giải quyết tận căn cuộc khủng hoảng linh mục hiện nay. Cuộc khủng hoảng linh mục hiện nay không phải về trí thức nhưng về tu đức. Cốt lõi của đời sống linh mục không phải là họat động bên ngoài nhưng là sống với Chúa và cứu độ các linh hồn. Linh mục là nhà đào tạo các vị thánh và là người dậy con đường thánh thiện. Vì thế chính linh mục phải nên thánh trước. Thánh Gioan Maria Vianney là tấm gương sáng chói về đời sống linh mục thánh thiện, đặc biệt ở ba điểm sau :
Đời sống cầu nguyện liên lỉ. Thánh nhân là vị linh mục say mê cầu nguyện. Từ sáng sớm khi nhà thờ chưa có bóng người, ngài đã xách đèn ra nhà thờ cầu nguyện. Đặc biệt yêu mến Thánh Thể nên ngài quì gối hàng giờ trước Thánh Thể mà không cảm thấy mệt mỏi. Không chỉ cầu nguyện lâu giờ nhưng còn ở cường độ cao, ngài kết hợp đến hòa nhập với Chúa Giêsu Thánh Thể “như hai cây nến sáp chảy hòa quyện vào nhau” trở nên đồng hình đồng dạng, không thể phân biệt và không thể tách biệt được nữa. Quỳ trước Thánh Thể, khuôn mặt ngài biến đổi nên tươi sáng trong tâm trạng chan hòa hạnh phúc. Ngài luôn thưa với Chúa : “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Con chỉ có một nguyện ước là được yêu mến Chúa cho đến hơi thở cuối cùng của đời con”. Ngài coi cầu nguyện là phương thế đầu tiên, phương thế duy nhất và là phương thế cuối cùng giúp việc tông đồ sinh hoa kết quả. Nên ngay từ khi được sai về giáo xứ Ars khô khan nguội lạnh, việc đầu tiên ngài làm là cầu nguyện cho giáo dân trong xứ. Nhờ sống thân mật với Chúa mà ngài tìm được con đường đi vào tâm hồn con người, dẫn đưa được nhiều người về với Chúa.
Đời sống khổ chế nhiệm nhặt. Để tăng cường cho lời cầu nguyện, thánh nhân sống một đời sống kỷ luật, mực thước và khắt khe với bản thân. Cặn kẽ giữ ba lời khuyên Phúc Am, ngài đặc biệt sống đơn sơ khó nghèo. Không chỉ đơn sơ trong đời sống với y phục và đồ dùng giản dị, ngài còn ăn uống kham khổ và tìm nhiều cách để hãm mình phạt xác. Có thời gian ngài tự nấu ăn. Và món ăn duy nhất của ngài là khoai luộc. Nghiêm ngặt với bản thân nhưng ngài rất rộng rãi bao dung đối với người khác. Thời giờ của ngài rất khít khao, nhưng khi giáo dân cần đến ngài sẵn sàng dành nhiều thời giờ phục vụ phần linh hồn cho họ. An uống đạm bạc, nhưng ngài đem trẻ mồ côi về nuôi và chăm sóc cho các em cả phần hồn lẫn phần xác.
Đời sống phục vụ quên mình. Không hề đi du lịch đây đó, nhưng ngài thường xuyên thăm viếng giáo dân, đặc biệt thăm viếng và chăm sóc trẻ mồ côi. Không có phương tiện giải trí nhưng ngài mở rộng cửa đón tiếp khác hành hương. Mỗi ngày ngài đón tiếp hàng trăm người đến xin xưng tội. Có năm ngài đón tiếp hàng trăm ngàn người. Và ngài không ngần ngại ngồi trong tòa giải tội 18 giờ một ngày để phục vụ phần linh hồn cho giáo dân từ khắp nơi tuôn đến. Ngài đã chết vì giải tội quá mệt mỏi. Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô đệ nhị gọi ngài là vị tử đạo của tòa giải tội. Sở dĩ ngài chăm lo phục vụ giáo dân đặc biệt trong cử hành bí tích như thế vì ngài tha thiết với việc thánh hóa giáo dân. Ngay từ khi bước vào cổng làng ngài đã nói với em bé đầu tiên mà ngài gặp : “Cha sẽ chỉ cho con đường về Nước Trời”. Tha thiết với việc nên thánh của giáo dân, chính bản thân ngài cũng không ngừng phấn đấu nên thánh vì ngài hiểu rằng linh mục phải nên thánh mới có thể giúp giáo dân nên thánh. Ngài nói : “ Ở nơi nào có dấu chân vị thánh đi qua, Chúa cũng đi qua nơi ấy với vị thánh”.
Chính vì ý thức điều cốt yếu của đời sống linh mục và chăm lo rèn luyện những điều cốt lõi đó mà thánh Gioan Maria Vianney, một linh mục kém về trí thức đã gặt hái được những kết quả lớn lao trong việc tông đồ. Tấm gương của ngài nhắc nhở chúng ta hãy học cho biết đâu là bổn phận quan trọng nhất trong đời và hãy hết lòng chăm lo chu toàn bổn phận đó. Rochefoucauld, một triết gia Pháp nói : “Trên đời có ba thứ dốt. Một là không biết những điều cần phải biết. Hai là biết những điều không cần biết. Ba là không biết rõ những gì mình đang biết”. Nhân dịp đầu năm học mới và Năm Linh Mục chúng ta hãy noi gương thánh Gioan Maria Vianney, biết học làm người và học nên thánh. Đó là những bổn phận quan trọng nhất của chúng ta. Đó chính là cái học nền tảng, là yếu tố quyết định mọi thành công của con người, của Giáo hội và của xã hội.
Tôi phó dâng các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh, các thầy cô giáo, các sinh viên học sinh trong tay Mẹ Maria. Xưa kia Mẹ đã góp phần đào tạo Chúa Giêsu, xin Mẹ trong năm học mới và Năm Linh Mục này đào tạo chúng ta nên giống Chúa Giêsu, nên hình ảnh của Chúa Giêsu, nên cánh tay và trái tim nối dài của Chúa Giêsu, để chúng ta xứng đáng là dụng cụ của Chúa trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, phục vụ hạnh phúc chân chính của mọi người.
Thân ái chào anh chị em.
vendredi 21 août 2009
Nhớ Đỗ Ngọc Yến
Sunday, August 16, 2009
Ngô Nhân Dụng
Trong những năm đầu làm báo Người Việt, một lần được nhật báo The New York Times phỏng vấn, người ta hỏi Ðỗ Ngọc Yến lấy tờ báo nào làm mẫu, Yến trả lời ngay là báo Le Monde ở Pháp. Một phần vì khi ở Việt Nam nhiều người vẫn quen đọc tiếng Pháp và coi tờ Le Monde là một nhật báo đứng đắn, đáng kính trọng. Mấy lần họp tòa soạn Người Việt, Yến đã hăng say kể chuyện hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, Tướng De Gaule mời một số ký giả tới, nói với họ rằng trong công cuộc xây dựng một nước Pháp mới, cần có một tờ báo đàng hoàng. Ông tướng hứa chính phủ Pháp sẽ cung cấp một số vốn khởi đầu nhưng sẽ không can thiệp vào công việc thông tin này, để tờ báo hoàn toàn do giới làm báo chịu trách nhiệm phục vụ công ích. Ðỗ Ngọc Yến thích báo Le Monde vì trong đó những người viết báo có quyền quyết định đường lối thông tin và bảo vệ tính cách độc lập trước các xu hướng và thế lực chính trị.
Khi Yến còn sống chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau về những tờ báo có cơ cấu bảo đảm tính độc lập, coi việc thông tin trung thực, khách quan là danh dự nghề nghiệp. Một thí dụ chúng tôi hay nêu ra là tuần báo Economist ở Anh, còn Yến không hay đọc báo đó vì nghĩ đó là tờ báo chỉ thích hợp cho những người nghiên cứu kinh tế đọc. Cả hai chúng tôi đều thiết tha mong trong tương lai ở nước Việt Nam mình sẽ có những tờ báo và cơ sở truyền thông độc lập như vậy. Khi nói đến nước Pháp người ta nói đến Le Monde; ở Mỹ có các nhật báo New York Times, Wall Street Journal, Washington Post; nước Anh có những tờ Times, Observer, Ðài BBC, vân vân. Các tờ báo đó giống như những “định chế quốc gia” làm cho người dân các nước này hãnh diện. Một giấc mơ của Ðỗ Ngọc Yến là khi nước Việt Nam mình được sống tự do dân chủ thì anh chị em làm báo sẽ xây dựng không phải một mà nhiều cơ sở truyền thông độc lập, đứng đắn, có tầm vóc quốc tế như vậy. Trong số những tờ báo mà Yến đã đọc ở Việt Nam trước năm 1975, Yến ước mong nếu còn sống sẽ thấy những báo đứng đắn ít nhất cũng như Thần Chung, Chính Luận, hai tờ báo có lập trường đối chọi nhau nhưng kính trọng lẫn nhau. Từ mươi năm trước khi qua đời, Yến đã nói ngày nào trong nước được tự do sẽ xuất bản tờ Người Việt ở Sài Gòn. Cần tập cho đồng bào trong nước lối đọc báo mới, đọc những tờ báo đáng tin chứ không phải những báo chỉ đóng vai tờ truyền đơn chính trị. Nhiều người không hiểu được lối nhìn xa đó. Ðỗ Ngọc Yến tự học nghề báo, đi học Văn Khoa nhưng không bao giờ nghĩ đến việc dạy học hoặc viết văn. Từ khi lớn lên Yến hầu như không bao giờ làm một công việc nào khác để sinh sống, ngoài nghề báo - trừ mấy năm đầu mới sang Mỹ phải làm đủ thứ việc, trong đó có làm cán sự xã hội trong một vài năm. Yến ham làm báo như người ta ham đá banh, ham trồng hoa lan, chứ không phải nhắm làm báo để kiếm tiền. Cho nên nếu Ðỗ Ngọc Yến tha thiết với cái nghiệp làm báo, đến danh tự, đạo đức của nghề, điều đó cũng dễ hiểu. Yến được đào tạo trong môi trường Hướng Ðạo cho nên cũng thừa hưởng một nền móng đạo lý của phong trào này, những quy tắc đạo lý để mình sống theo suốt đời thì cũng là những quy tắc mình theo khi làm báo.
Chính Yến là người thúc đẩy từ đầu và cho đến cùng việc nhờ họa sĩ Nguyễn Thị Hợp vẽ bức tranh treo trên tường ở phòng tiếp khách báo Người Việt, mô tả việc viết tu chính án thứ nhất bảo đảm quyền tự do báo chí trong Hiến Pháp Mỹ. Yến thường mời các người khách ngoại quốc ngắm bức tranh này, và giải thích với họ rằng nếu không có Tu Chính Án số một thì không có nhật báo Người Việt. Vì chỉ khi sống trong một xã hội tự do như ở Mỹ thì những người tay không như Ðỗ Ngọc Yến mới có thể dựng lên cơ đồ một tờ báo được coi là lớn nhất của người Việt ở nước ngoài. Yến chưa bao giờ viết ra các quy tắc nghề nghiệp, nhưng Yến thường hay nói, rất chịu khó nói, không ngại nói. Và những điều Yến nói ra thường dựa trên những câu chuyện cụ thể, các quyết định trước mắt bắt buộc phải lựa chọn, chứ không tự nhiên đặt ra như những vấn đề trừu tượng và tổng quát. Yến không có khuynh hướng bàn chuyện lý thuyết, mặc dù anh hay nêu lên những quy tắc tổng quát khi quyết định điều gì. Những ý kiến của Yến thường dựa trên căn bản là đạo lý mà thế hệ chúng tôi đã hấp thụ trong trường học, cộng với phương cách cư xử phải chăng, lối sống khôn ngoan của người Việt mà từ nhỏ chúng ta đã học. Chẳng hạn như đối với các đồng nghiệp. Yến chủ trương không bao giờ gây tranh cãi, và thường không tham dự các vụ tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng. Có những lúc người Việt ở nước ngoài bàn tán, tranh luận sôi nổi về một đề tài nào đó, bao nhiêu tờ báo đã tham dự, đứng về phía bên này hay bên kia. Thí dụ như khi có hai hoặc ba ban chấp hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, hay khi các đoàn thể và các báo tranh luận vụ một nhà văn người Việt tị nạn kiện một trường đại học ở Boston, hay là những vụ nhỏ hơn như cộng đồng người Việt ở Nam California có hai người đều nhận là chủ tịch, các hội cựu học sinh Gia Long, Trưng Vương cũng có lúc như thế. Bao nhiêu tờ báo đăng các thông cáo tranh cãi xem bên nào phải, bên nào trái, ai cũng có những lý luận sắc bén cả, nhưng báo Người Việt thường không có ý kiến. Không những thế, Yến đề nghị Người Việt không đăng cả các thông cáo hoặc những bài lai cảo người ta gửi cho về các vấn đề đó.
Nhiều bạn bè có lúc đã tới tận tòa báo, thẳng thắn công kích báo Người Việt “hèn” không dám bày tỏ thái độ về các vấn đề sôi nổi cả cộng đồng. Nhưng Người Việt vẫn giữ thái độ đứng ngoài.
Một lý do mà Yến thường nêu lên là tờ báo không cần phải tỏ thái độ về tất cả các câu chuyện đang được dư luận tranh cãi. Im lặng cũng là một thái độ. Nó có ý nghĩa là tờ báo coi những vụ tranh cãi này chỉ là những chuyện nhỏ đã bị thổi phồng lên mà thôi. Không nên bắt độc giả Người Việt phải bận tâm về những vấn đề như vậy. Cứ chờ đợi, sẽ có ngày ai cũng thấy đó là những vấn đề nhỏ, sẽ chìm vào lãng quên.
Một lý do khác mà đa số anh em đồng ý với Ðỗ Ngọc Yến là chúng ta không nên đề cao những vấn đề làm chia rẽ cộng đồng. Cứ để yên, một xã hội phức tạp và căng thẳng như khối người Việt di tản đã có đủ lý do chia rẽ nhau lắm rồi; tờ báo không nên bắt đồng bào thấy nhiều cảnh chia rẽ và bêu riếu hơn nữa.
Nhiều người chê là Ðỗ Ngọc Yến và nhật báo Người Việt “tròn” quá, có thái độ “cầu an” trước các cuộc tranh cãi đầy sóng gió. Nhiều anh em trong tòa báo cũng cảm thấy máu nóng lên, muốn “tỏ thái độ” cho thiên hạ biết là “báo mình” không “trốn tránh.” Nhưng cuối cùng, lựa chọn của Ðỗ Ngọc Yến vẫn được mọi người chấp thuận. Cuối cùng mọi người thấy đó là một lựa chọn khôn ngoan.
Một câu hỏi mà Yến thường đặt là: Nếu như nhật báo Người Việt chọn một thái độ nào đó, đứng về một phe trong các cuộc tranh cãi, thì liệu có phải vì lựa chọn đó là lẽ phải, là sự thật duy nhất, ý kiến đúng nhất hay không? Khi trong cộng đồng có bao nhiêu người bất đồng ý kiến một cách sôi nổi như vậy, người viết báo có nên đưa ý kiến riêng của mình ra, dùng thế lực của một cơ quan ngôn luận để chinh phục độc giả hay không?
Nhiều khi các vấn đề đó lại chỉ là những chuyện cá nhân, hoặc liên hệ đến một nhóm người mà không nhất thiết là những vấn đề chung đến nỗi cần có những câu trả lời chung. Như vậy thì báo Người Việt có cần trình bày ý kiến của mình về các vụ như thế hay không? Vả lại, Yến thường nói khích, tại sao phải mang ý kiến của “một nhóm người làm báo” mà áp đặt trên độc giả và công chúng về những chuyện mà họ chẳng thấy liên can gì đến họ, mà họ cũng không cần biết nếu không vì có tờ báo nhắc đến?
Ðỗ Ngọc Yến có một quan niệm rõ ràng là một tờ báo phải là một định chế công ích, của chung tất cả mọi người chứ không phải của các chủ nhân, cũng không phải của các người viết trong tờ báo. Những người có quyền viết, quyền in báo, phải nhớ là mình được công chúng ủy nhiệm. Cho nên, không được đặt tư ý, tư lợi lên trên công việc mà xã hội chờ đợi nơi mình, là thông tin trung thực, khách quan, vô tư, những tiêu chuẩn mà độc giả có quyền được hưởng; cũng giống như khi bước vào tiệm ăn người ta trông đợi món ăn phải hợp vệ sinh vậy. Có bảo đảm các tiêu chuẩn như thế tờ báo mới giữ được lòng tin của độc giả.
Một nguyên nhân khiến Yến không để cho nhật báo Người Việt cãi nhau tay đôi với các đồng nghiệp là anh học kinh nghiệm khôn ngoan của các vị đàn anh đã làm báo ở Sài Gòn năm xưa. Yến nhớ từng chi tiết những vụ báo này chửi báo khác hồi đó. Anh học được một điều là những tờ báo lớn đã có địa vị rồi thì không bao giờ “cãi nhau tay đôi” với những tờ báo nhỏ, nhất là những báo thuộc loại chỉ thích gây sự. Vì dính vào những vụ tranh chấp đó không ích lợi gì cả, chỉ giúp cho tờ báo nhỏ được nổi tiếng. Thật ra trong nghề báo ai cũng biết những kinh nghiệm khôn ngoan đó; nhưng Yến là người thi hành được lối cư xử này chỉ vì bản tính Yến rất ôn hòa, nhẫn nhịn, không kiêu căng. Và nhất là anh biết tự đè nén không để tự ái nhất thời ảnh hưởng tới hành động của mình. Trong cuộc sống hàng ngày Yến cũng thường như vậy, không bao giờ nổi nóng khi bị bạn hay thù công kích.
Nhiều lần tờ báo Người Việt mắc phải những sơ suất khiến cho nhiều người hiểu lầm, có những cuộc biểu tình phản đối, nhiều người thuộc các đảng phái, các tổ chức chính trị dẫn đầu các cuộc biểu tình đó. Yến thường nhắc nhở tòa soạn rằng báo mình không bao giờ coi những người đã biểu tình chống mình là kẻ thù, nhất là các đoàn thể của họ. Những tin tức liên quan đến các đoàn thể đó, đáng loan tin vẫn phải loan tin.
Cũng vậy, khi thấy báo mình phạm lỗi lầm sơ suất, Yến thường yêu cầu Người Việt phải đính chính và xin lỗi độc giả thật nhanh chóng. Có một thứ mà Yến rất quý, luôn luôn bảo vệ không làm mất, là lòng tín nhiệm của độc giả. Yến tin rằng nói chung độc giả đều khôn chứ không dại như nhiều người tưởng. Ðó cũng là một niềm tin nền tảng của chế độ dân chủ tự do. Người làm báo không nên quá tự tin ở khả năng thuyết phục của ngòi bút mình dùng. Không nên cho là mình phải “hướng dẫn” dư luận. Ðừng giấu giếm, đừng che đậy, đừng tìm cách chạy quanh, đừng giở thói biện bác khôn khéo để che lấp những sai lầm. Mình có thể che giấu một lỗi lầm trong nhất thời, che giấu đối với một số người; hoặc mình tìm cách mở bài biện bác để chối cãi, không muốn nhận lỗi vì sợ mất thể diện. Nhưng về lâu dài thì sẽ không che giấu được gì cả, cuối cùng rồi người đọc họ biết hết ai nói thật, ai nói dối. Phải mất nhiều năm một tờ báo mới tạo được niềm tin tưởng của công chúng; nhưng chỉ cần một bước sơ suất là sẽ làm mất tất cả lòng tin ngay, và sau đó muốn xây dựng lại rất khó. Sau khi Ðỗ Ngọc Yến qua đời, khi nhớ tới Yến riêng tôi vẫn nhớ hình ảnh một người khiêm cung, Yến không bao giờ tìm cách áp đặt ý kiến của mình, không cố ý lôi kéo hoặc gây ảnh hưởng trên người khác. Trong nhiều cuộc thảo luận nội bộ, thường Yến chỉ ngồi im, để những người khác lý luận tranh cãi. Có lúc Yến chỉ nói một câu giản dị, “Báo Người Việt không làm như vậy,” thế là mọi người nghĩ lại, những người đang thảo luận lại tự quên mình đi để đặt mình vào địa vị “Báo Người Việt,” một thực thể khác, của chung, vượt trên thân phận của mỗi cá nhân. Nhiều khi nhờ thế mà mình suy nghĩ sáng sủa, rõ ràng hơn; vì không còn bị vướng trong cái tổ kén cá nhân của mình nữa.
Một mối quan tâm của Ðỗ Ngọc Yến cũng như Lê Ðình Ðiểu, là sau khi thế hệ này qua đời làm sao để “Báo Người Việt” sẽ giữ được như một thực thể vượt lên trên các cá nhân đã chung sức xây dựng lên nó. Tờ báo phải sống mãi như một định chế chung, nó thuộc về công chúng, thuộc cả cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chứ không phải của một nhóm anh em nào, bây giờ cũng như mai sau, dù rằng đó toàn là những người tốt chăng nữa. Và khi nào nước Việt mình được tự do làm báo, thì anh em phải giúp bà con xây dựng những tờ báo, những định chế trong ngành truyền thông đứng vững như một cách độc lập. Xây dựng lên những định chế như thế là một cách trả ơn tổ tiên, từ Chu Văn An đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Ðình Chiểu, các sĩ phu còn nêu gương sáng; cho tới những Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ðạo, Nhượng Tống, Phan Khôi, những nhà báo đáng kính lớp trước.
Nghề báo cũng chỉ là một định chế của xã hội con người. Ðịnh chế nào cũng có thể tốt hay xấu tùy theo những người làm việc trong đó. Khi nào người làm báo có ý thức tự coi trách nhiệm của mình là lớn, là có thể ảnh hưởng đến xã hội chung quanh, thì chính họ sẽ giúp cho nghề truyền thông có giá trị hơn. Ðỗ Ngọc Yến là một người như vậy. Mất anh mấy năm nay, nhiều người mới thấy tiếc. Vắng mặt anh, mới nhớ lại rằng khi còn có anh là đáng quý.
Ngô Nhân Dụng
Ngô Nhân Dụng
Trong những năm đầu làm báo Người Việt, một lần được nhật báo The New York Times phỏng vấn, người ta hỏi Ðỗ Ngọc Yến lấy tờ báo nào làm mẫu, Yến trả lời ngay là báo Le Monde ở Pháp. Một phần vì khi ở Việt Nam nhiều người vẫn quen đọc tiếng Pháp và coi tờ Le Monde là một nhật báo đứng đắn, đáng kính trọng. Mấy lần họp tòa soạn Người Việt, Yến đã hăng say kể chuyện hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, Tướng De Gaule mời một số ký giả tới, nói với họ rằng trong công cuộc xây dựng một nước Pháp mới, cần có một tờ báo đàng hoàng. Ông tướng hứa chính phủ Pháp sẽ cung cấp một số vốn khởi đầu nhưng sẽ không can thiệp vào công việc thông tin này, để tờ báo hoàn toàn do giới làm báo chịu trách nhiệm phục vụ công ích. Ðỗ Ngọc Yến thích báo Le Monde vì trong đó những người viết báo có quyền quyết định đường lối thông tin và bảo vệ tính cách độc lập trước các xu hướng và thế lực chính trị.
Khi Yến còn sống chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau về những tờ báo có cơ cấu bảo đảm tính độc lập, coi việc thông tin trung thực, khách quan là danh dự nghề nghiệp. Một thí dụ chúng tôi hay nêu ra là tuần báo Economist ở Anh, còn Yến không hay đọc báo đó vì nghĩ đó là tờ báo chỉ thích hợp cho những người nghiên cứu kinh tế đọc. Cả hai chúng tôi đều thiết tha mong trong tương lai ở nước Việt Nam mình sẽ có những tờ báo và cơ sở truyền thông độc lập như vậy. Khi nói đến nước Pháp người ta nói đến Le Monde; ở Mỹ có các nhật báo New York Times, Wall Street Journal, Washington Post; nước Anh có những tờ Times, Observer, Ðài BBC, vân vân. Các tờ báo đó giống như những “định chế quốc gia” làm cho người dân các nước này hãnh diện. Một giấc mơ của Ðỗ Ngọc Yến là khi nước Việt Nam mình được sống tự do dân chủ thì anh chị em làm báo sẽ xây dựng không phải một mà nhiều cơ sở truyền thông độc lập, đứng đắn, có tầm vóc quốc tế như vậy. Trong số những tờ báo mà Yến đã đọc ở Việt Nam trước năm 1975, Yến ước mong nếu còn sống sẽ thấy những báo đứng đắn ít nhất cũng như Thần Chung, Chính Luận, hai tờ báo có lập trường đối chọi nhau nhưng kính trọng lẫn nhau. Từ mươi năm trước khi qua đời, Yến đã nói ngày nào trong nước được tự do sẽ xuất bản tờ Người Việt ở Sài Gòn. Cần tập cho đồng bào trong nước lối đọc báo mới, đọc những tờ báo đáng tin chứ không phải những báo chỉ đóng vai tờ truyền đơn chính trị. Nhiều người không hiểu được lối nhìn xa đó. Ðỗ Ngọc Yến tự học nghề báo, đi học Văn Khoa nhưng không bao giờ nghĩ đến việc dạy học hoặc viết văn. Từ khi lớn lên Yến hầu như không bao giờ làm một công việc nào khác để sinh sống, ngoài nghề báo - trừ mấy năm đầu mới sang Mỹ phải làm đủ thứ việc, trong đó có làm cán sự xã hội trong một vài năm. Yến ham làm báo như người ta ham đá banh, ham trồng hoa lan, chứ không phải nhắm làm báo để kiếm tiền. Cho nên nếu Ðỗ Ngọc Yến tha thiết với cái nghiệp làm báo, đến danh tự, đạo đức của nghề, điều đó cũng dễ hiểu. Yến được đào tạo trong môi trường Hướng Ðạo cho nên cũng thừa hưởng một nền móng đạo lý của phong trào này, những quy tắc đạo lý để mình sống theo suốt đời thì cũng là những quy tắc mình theo khi làm báo.
Chính Yến là người thúc đẩy từ đầu và cho đến cùng việc nhờ họa sĩ Nguyễn Thị Hợp vẽ bức tranh treo trên tường ở phòng tiếp khách báo Người Việt, mô tả việc viết tu chính án thứ nhất bảo đảm quyền tự do báo chí trong Hiến Pháp Mỹ. Yến thường mời các người khách ngoại quốc ngắm bức tranh này, và giải thích với họ rằng nếu không có Tu Chính Án số một thì không có nhật báo Người Việt. Vì chỉ khi sống trong một xã hội tự do như ở Mỹ thì những người tay không như Ðỗ Ngọc Yến mới có thể dựng lên cơ đồ một tờ báo được coi là lớn nhất của người Việt ở nước ngoài. Yến chưa bao giờ viết ra các quy tắc nghề nghiệp, nhưng Yến thường hay nói, rất chịu khó nói, không ngại nói. Và những điều Yến nói ra thường dựa trên những câu chuyện cụ thể, các quyết định trước mắt bắt buộc phải lựa chọn, chứ không tự nhiên đặt ra như những vấn đề trừu tượng và tổng quát. Yến không có khuynh hướng bàn chuyện lý thuyết, mặc dù anh hay nêu lên những quy tắc tổng quát khi quyết định điều gì. Những ý kiến của Yến thường dựa trên căn bản là đạo lý mà thế hệ chúng tôi đã hấp thụ trong trường học, cộng với phương cách cư xử phải chăng, lối sống khôn ngoan của người Việt mà từ nhỏ chúng ta đã học. Chẳng hạn như đối với các đồng nghiệp. Yến chủ trương không bao giờ gây tranh cãi, và thường không tham dự các vụ tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng. Có những lúc người Việt ở nước ngoài bàn tán, tranh luận sôi nổi về một đề tài nào đó, bao nhiêu tờ báo đã tham dự, đứng về phía bên này hay bên kia. Thí dụ như khi có hai hoặc ba ban chấp hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, hay khi các đoàn thể và các báo tranh luận vụ một nhà văn người Việt tị nạn kiện một trường đại học ở Boston, hay là những vụ nhỏ hơn như cộng đồng người Việt ở Nam California có hai người đều nhận là chủ tịch, các hội cựu học sinh Gia Long, Trưng Vương cũng có lúc như thế. Bao nhiêu tờ báo đăng các thông cáo tranh cãi xem bên nào phải, bên nào trái, ai cũng có những lý luận sắc bén cả, nhưng báo Người Việt thường không có ý kiến. Không những thế, Yến đề nghị Người Việt không đăng cả các thông cáo hoặc những bài lai cảo người ta gửi cho về các vấn đề đó.
Nhiều bạn bè có lúc đã tới tận tòa báo, thẳng thắn công kích báo Người Việt “hèn” không dám bày tỏ thái độ về các vấn đề sôi nổi cả cộng đồng. Nhưng Người Việt vẫn giữ thái độ đứng ngoài.
Một lý do mà Yến thường nêu lên là tờ báo không cần phải tỏ thái độ về tất cả các câu chuyện đang được dư luận tranh cãi. Im lặng cũng là một thái độ. Nó có ý nghĩa là tờ báo coi những vụ tranh cãi này chỉ là những chuyện nhỏ đã bị thổi phồng lên mà thôi. Không nên bắt độc giả Người Việt phải bận tâm về những vấn đề như vậy. Cứ chờ đợi, sẽ có ngày ai cũng thấy đó là những vấn đề nhỏ, sẽ chìm vào lãng quên.
Một lý do khác mà đa số anh em đồng ý với Ðỗ Ngọc Yến là chúng ta không nên đề cao những vấn đề làm chia rẽ cộng đồng. Cứ để yên, một xã hội phức tạp và căng thẳng như khối người Việt di tản đã có đủ lý do chia rẽ nhau lắm rồi; tờ báo không nên bắt đồng bào thấy nhiều cảnh chia rẽ và bêu riếu hơn nữa.
Nhiều người chê là Ðỗ Ngọc Yến và nhật báo Người Việt “tròn” quá, có thái độ “cầu an” trước các cuộc tranh cãi đầy sóng gió. Nhiều anh em trong tòa báo cũng cảm thấy máu nóng lên, muốn “tỏ thái độ” cho thiên hạ biết là “báo mình” không “trốn tránh.” Nhưng cuối cùng, lựa chọn của Ðỗ Ngọc Yến vẫn được mọi người chấp thuận. Cuối cùng mọi người thấy đó là một lựa chọn khôn ngoan.
Một câu hỏi mà Yến thường đặt là: Nếu như nhật báo Người Việt chọn một thái độ nào đó, đứng về một phe trong các cuộc tranh cãi, thì liệu có phải vì lựa chọn đó là lẽ phải, là sự thật duy nhất, ý kiến đúng nhất hay không? Khi trong cộng đồng có bao nhiêu người bất đồng ý kiến một cách sôi nổi như vậy, người viết báo có nên đưa ý kiến riêng của mình ra, dùng thế lực của một cơ quan ngôn luận để chinh phục độc giả hay không?
Nhiều khi các vấn đề đó lại chỉ là những chuyện cá nhân, hoặc liên hệ đến một nhóm người mà không nhất thiết là những vấn đề chung đến nỗi cần có những câu trả lời chung. Như vậy thì báo Người Việt có cần trình bày ý kiến của mình về các vụ như thế hay không? Vả lại, Yến thường nói khích, tại sao phải mang ý kiến của “một nhóm người làm báo” mà áp đặt trên độc giả và công chúng về những chuyện mà họ chẳng thấy liên can gì đến họ, mà họ cũng không cần biết nếu không vì có tờ báo nhắc đến?
Ðỗ Ngọc Yến có một quan niệm rõ ràng là một tờ báo phải là một định chế công ích, của chung tất cả mọi người chứ không phải của các chủ nhân, cũng không phải của các người viết trong tờ báo. Những người có quyền viết, quyền in báo, phải nhớ là mình được công chúng ủy nhiệm. Cho nên, không được đặt tư ý, tư lợi lên trên công việc mà xã hội chờ đợi nơi mình, là thông tin trung thực, khách quan, vô tư, những tiêu chuẩn mà độc giả có quyền được hưởng; cũng giống như khi bước vào tiệm ăn người ta trông đợi món ăn phải hợp vệ sinh vậy. Có bảo đảm các tiêu chuẩn như thế tờ báo mới giữ được lòng tin của độc giả.
Một nguyên nhân khiến Yến không để cho nhật báo Người Việt cãi nhau tay đôi với các đồng nghiệp là anh học kinh nghiệm khôn ngoan của các vị đàn anh đã làm báo ở Sài Gòn năm xưa. Yến nhớ từng chi tiết những vụ báo này chửi báo khác hồi đó. Anh học được một điều là những tờ báo lớn đã có địa vị rồi thì không bao giờ “cãi nhau tay đôi” với những tờ báo nhỏ, nhất là những báo thuộc loại chỉ thích gây sự. Vì dính vào những vụ tranh chấp đó không ích lợi gì cả, chỉ giúp cho tờ báo nhỏ được nổi tiếng. Thật ra trong nghề báo ai cũng biết những kinh nghiệm khôn ngoan đó; nhưng Yến là người thi hành được lối cư xử này chỉ vì bản tính Yến rất ôn hòa, nhẫn nhịn, không kiêu căng. Và nhất là anh biết tự đè nén không để tự ái nhất thời ảnh hưởng tới hành động của mình. Trong cuộc sống hàng ngày Yến cũng thường như vậy, không bao giờ nổi nóng khi bị bạn hay thù công kích.
Nhiều lần tờ báo Người Việt mắc phải những sơ suất khiến cho nhiều người hiểu lầm, có những cuộc biểu tình phản đối, nhiều người thuộc các đảng phái, các tổ chức chính trị dẫn đầu các cuộc biểu tình đó. Yến thường nhắc nhở tòa soạn rằng báo mình không bao giờ coi những người đã biểu tình chống mình là kẻ thù, nhất là các đoàn thể của họ. Những tin tức liên quan đến các đoàn thể đó, đáng loan tin vẫn phải loan tin.
Cũng vậy, khi thấy báo mình phạm lỗi lầm sơ suất, Yến thường yêu cầu Người Việt phải đính chính và xin lỗi độc giả thật nhanh chóng. Có một thứ mà Yến rất quý, luôn luôn bảo vệ không làm mất, là lòng tín nhiệm của độc giả. Yến tin rằng nói chung độc giả đều khôn chứ không dại như nhiều người tưởng. Ðó cũng là một niềm tin nền tảng của chế độ dân chủ tự do. Người làm báo không nên quá tự tin ở khả năng thuyết phục của ngòi bút mình dùng. Không nên cho là mình phải “hướng dẫn” dư luận. Ðừng giấu giếm, đừng che đậy, đừng tìm cách chạy quanh, đừng giở thói biện bác khôn khéo để che lấp những sai lầm. Mình có thể che giấu một lỗi lầm trong nhất thời, che giấu đối với một số người; hoặc mình tìm cách mở bài biện bác để chối cãi, không muốn nhận lỗi vì sợ mất thể diện. Nhưng về lâu dài thì sẽ không che giấu được gì cả, cuối cùng rồi người đọc họ biết hết ai nói thật, ai nói dối. Phải mất nhiều năm một tờ báo mới tạo được niềm tin tưởng của công chúng; nhưng chỉ cần một bước sơ suất là sẽ làm mất tất cả lòng tin ngay, và sau đó muốn xây dựng lại rất khó. Sau khi Ðỗ Ngọc Yến qua đời, khi nhớ tới Yến riêng tôi vẫn nhớ hình ảnh một người khiêm cung, Yến không bao giờ tìm cách áp đặt ý kiến của mình, không cố ý lôi kéo hoặc gây ảnh hưởng trên người khác. Trong nhiều cuộc thảo luận nội bộ, thường Yến chỉ ngồi im, để những người khác lý luận tranh cãi. Có lúc Yến chỉ nói một câu giản dị, “Báo Người Việt không làm như vậy,” thế là mọi người nghĩ lại, những người đang thảo luận lại tự quên mình đi để đặt mình vào địa vị “Báo Người Việt,” một thực thể khác, của chung, vượt trên thân phận của mỗi cá nhân. Nhiều khi nhờ thế mà mình suy nghĩ sáng sủa, rõ ràng hơn; vì không còn bị vướng trong cái tổ kén cá nhân của mình nữa.
Một mối quan tâm của Ðỗ Ngọc Yến cũng như Lê Ðình Ðiểu, là sau khi thế hệ này qua đời làm sao để “Báo Người Việt” sẽ giữ được như một thực thể vượt lên trên các cá nhân đã chung sức xây dựng lên nó. Tờ báo phải sống mãi như một định chế chung, nó thuộc về công chúng, thuộc cả cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chứ không phải của một nhóm anh em nào, bây giờ cũng như mai sau, dù rằng đó toàn là những người tốt chăng nữa. Và khi nào nước Việt mình được tự do làm báo, thì anh em phải giúp bà con xây dựng những tờ báo, những định chế trong ngành truyền thông đứng vững như một cách độc lập. Xây dựng lên những định chế như thế là một cách trả ơn tổ tiên, từ Chu Văn An đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Ðình Chiểu, các sĩ phu còn nêu gương sáng; cho tới những Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ðạo, Nhượng Tống, Phan Khôi, những nhà báo đáng kính lớp trước.
Nghề báo cũng chỉ là một định chế của xã hội con người. Ðịnh chế nào cũng có thể tốt hay xấu tùy theo những người làm việc trong đó. Khi nào người làm báo có ý thức tự coi trách nhiệm của mình là lớn, là có thể ảnh hưởng đến xã hội chung quanh, thì chính họ sẽ giúp cho nghề truyền thông có giá trị hơn. Ðỗ Ngọc Yến là một người như vậy. Mất anh mấy năm nay, nhiều người mới thấy tiếc. Vắng mặt anh, mới nhớ lại rằng khi còn có anh là đáng quý.
Ngô Nhân Dụng
lundi 17 août 2009
Ai mới là hèn ???
• Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 81 (15-8-2009)
Kể từ tháng 4 năm nay, thiên hạ (nhất là các công dân mạng) xôn xao về cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” đầy dũng cảm của nhạc sĩ Tô Hải. Tiếp đến, qua “Tuần kí số 11 ngày 05-07-2009”, cũng lại nhạc sĩ này bàn về cái hèn, trong đó ông phân loại: nào là cái hèn của báo chí, cái hèn của kẻ yếu, cái hèn giả vờ, cái hèn bất đắc dĩ…. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi, cái hèn tồi tệ nhất, đáng kinh tởm nhất, đáng khinh bỉ nhất là cái hèn được diễn tả qua thành ngữ “đánh kẻ dưới ngựa, bắn người sau lưng”. Nghĩa là cái hèn của kẻ có quyền lực trong tay (quyền lực chính trị, quyền lực tinh thần, quyền lực vật chất…), nhưng vì những toan tính xấu xa tàn ác, cuồng vọng thống trị độc tài, mà đã làm lắm điều bất nhân thất đức đối với những ai nằm dưới quyền của họ; hoặc vì khiếp nhược trước một quyền lực lớn hơn, họ lại phản ứng -theo lối mặc cảm bù trừ- bằng cách tàn hại những kẻ đang bị họ thống trị. Trên thực thế lịch sử, điều này được thấy rõ ràng trong các chế độ cộng sản.
Sau khi cướp được chính quyền (có lúc bằng gian manh xảo quyệt như tại Nga và Việt Nam), các đảng cộng sản đều che đậy thói đê hèn dưới mỹ từ “bạo lực cách mạng” hay “chuyên chính vô sản”, nghĩa là từ nay họ không thực thi quyền lực bằng lập luận dựa trên chân lý, bằng thuyết phục dựa trên công lý và thành quả, theo như lương tri và lương tâm thông thường của con người, mà bằng đàn áp với bạo lực hành chánh hay bạo lực vũ khí. Họ trị nước thay vì bằng cơ cấu tam quyền phân lập thì lại bằng tam quyền phân công, biến Quốc hội -tạo ra sau những cuộc bầu cử đầy gian trá và áp bức- thành lũ gia nô chỉ biết đưa ra hoặc sửa đổi các luật lệ theo ý đảng, có lợi cho đảng; biến Pháp viện, tòa án -tạo ra từ những kẻ thông thạo luật rừng, luật đảng hơn là luật pháp, luật lương tâm- thành lũ đười ươi (từ của Lm Nguyễn Văn Lý) chỉ biết xét xử và tuyên phạt với các “bản án bỏ túi” nhận từ đảng bộ hay từ chính trị bộ; biến cả hệ thống Chính quyền -tạo ra từ các đảng viên hồng hơn chuyên, giỏi hoạnh họe tham nhũng thay vì phục vụ- thành đám tay sai nô bộc chỉ biết mù quáng thực thi mệnh lệnh của đảng ủy địa phương hay trung ương. Đảng CS còn hèn đến độ biến quyền lực công luận (báo chí) thành những cái loa tuyên truyền ầm ĩ và lếu láo, biến quyền lực bảo an (quân đội và cảnh sát) thành những công cụ mù quáng và tàn bạo, biến quyền lực tinh thần (giới trí thức, giới tu sĩ quốc doanh) thành những con hến ngậm miệng hay những con vẹt lải nhải bài tụng ca. Trong hoàn cảnh ấy, toàn thể nhân dân chỉ còn là kẻ dưới ngựa cho đảng đánh xuống, chỉ còn là người đưa lưng cho đảng bắn vào.
Bên cạnh cái hèn bằng sử dụng bạo lực nói trên, cộng đảng VN còn tỏ ra hèn bằng thái độ khiếp nhược trước các cộng đảng cầm quyền lớn hơn mạnh hơn, như Liên xô hay Trung quốc chẳng hạn. Hồ Chí Minh, dù biết cuộc cải cách ruộng đất ở Liên xô và Trung quốc đầy huyết lệ và thất bại, nhưng vì khiếp sợ Stalin và Mao, đã vẫn xin chỉ thị từ hai tên đồ tể này (xem lá thư gởi Stalin ngày 31-10-1952). Cũng năm 1952, vì hèn trước các cố vấn và chuyên viên cải cách của Trung cộng, Hồ Chí Minh đã để mặc cho tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên kết án tử hình bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của đảng, người đã từng che chở, nuôi ăn chẳng những chính ông mà hầu hết các nhà lãnh đạo đảng. Cũng vì hèn mà Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958, lấy của Việt Nam Cộng Hòa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để dâng trên giấy cho ông anh vĩ đại, khiến ông anh này cứ mãi dựa vào đó để khẳng định chủ quyền. Cái hèn này đã lôi theo những cái hèn khác đối với Trung quốc, biểu lộ qua Hiệp định biên giới Việt-Trung ngày 30-12-1999 và Hiệp định lãnh hải Việt-Trung ngày 25-12-2000, dâng ngon ơ cho Tàu cộng hàng chục ngàn km2 đất và biển của Tiên tổ, qua Tuyên bố Việt-Trung tháng 12-2001 và tháng 06-2008, rồi qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007 cho phép TQ thực hiện dự án bauxite đầy nguy hiểm về văn hóa, sinh thái và an ninh trên vùng đất Tây Nguyên. Mới đây nhất, cái hèn của CSVN biểu lộ qua việc ký kết dâng Ải Nam quan và nhiều phần đất ở biên giới phía Bắc ngày 23-02-2009 với rất nhiều màu sắc và nghi lễ rộn ràng. Nhưng "vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu"! Và với mặc cảm bù trừ, CSVN quay lại cướp bóc đất đai của nhân dân và các tôn giáo cũng từ bấy nhiêu năm, hành hạ bỏ tù những ai đòi lại tài sản mình đã sở hữu chính đáng, dẹp tan các cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, dân oan, nhà dân chủ phản đối Trung quốc xâm lược.
Cái hèn vì khiếp sợ trước một quyền lực lớn hơn khác là quyền lực tinh thần (nhưng rồi phản ứng lại bằng bạo lực vũ khí và bạo lực hành chánh) đã biểu lộ lần đầu tiên -xem ra thế- qua vụ luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức xuất chúng đương thời của Việt Nam. Sau khi mời luật sư cho ý kiến về cuộc Cải cách Ruộng đất vừa hạ màn ngày 20-07-1956 (với bài “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc ngày 30-10-1956), Hồ Chí Minh đã hèn mạt báo thù bằng cách đày đọa cho đến chết nhân tài đặc biệt, nhân sĩ ưu tú ấy. Tiếp theo đó là một trò hèn khác nhắm vào các trí thức văn nghệ sĩ có khát vọng tự do dân chủ và đầu óc suy tư độc lập vốn đã lên tiếng phê bình về những sai lầm tàn ác trong CCRĐ cũng như về chính sách khống chế kiểm soát thành phần trí tuệ của Dân tộc. Trò hèn của những tên đa phần thấp kém về tri thức và nhân cách này (trong đảng CS) đã gây ra thảm kịch mang “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm”! Vụ Mậu Thân với việc phản bội cam kết hưu chiến, giết hại dã man dân lành, loại trừ đồng đội trong “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” cũng là một trò hèn mạt của CS vốn còn ghi đậm nét trong lịch sử dân tộc.
Thời gian gần đây, kể từ thế kỷ XXI, với việc nổi dậy của nhân dân đủ mọi tầng lớp, việc cất tiếng của tôn giáo đủ mọi giáo hội, việc đứng lên của các nhà đối kháng đủ mọi thành phần, việc lấn lướt ngày càng ngang ngược của ngoại thù phương Bắc, cái hèn của đảng CSVN càng bộc lộ một cách chói chang. Bằng chứng là những cuộc đàn áp dã man tại Thái Hà (Hà Nội), Tam Tòa (Quảng Bình), Bát Nhã (Lâm Đồng) với sự cấu kết giữa công an với bọn côn đồ (chưa hẳn là xã hội đen) mang tên “quần chúng tự phát” và sự đổ lỗi đê tiện cho đám công cụ tay sai này. Bằng chứng là những cuộc bắt bớ tùy tiện, xét xử vô luật, kết án với tội danh vu vơ những ai tranh đấu cho công lý và tự do. Điển hình là những bức ảnh quanh và trong phòng xử án các nhà dân chủ, mà đặc biệt là hình linh mục Lý bị bịt miệng và trói tay trong phiên tòa ô nhục tháng 3-2007 tại Huế. Để bảo đảm sự chiến thắng của đảng trong những phiên tòa này, CS đã đê hèn tước mất mọi quyền cơ bản của các bị can: không cho họ có luật sư cố vấn khi bắt đầu tiến trình thẩm vấn, để công an chấp pháp mặc sức khủng bố tinh thần và đưa vào tròng bẫy, không cho bị can được quyền thuê mướn những luật sư vừa ý, hoặc có cho thì chẳng để các luật sư đủ thì giờ gặp gỡ bị can, đủ điều kiện thu thập tài liệu, không cho các luật sư được trình bày cách tự do và đầy đủ bài bào chữa, hoặc có cho thì công tố và quan tòa vẫn chẳng thèm nghe, không cho thân nhân bạn hữu hay báo chí quốc tế tham dự phiên tòa, vì muốn tước mất sự trợ lực tinh thần mà bị can có quyền được hưởng (báo chí nếu có mặt thì bị nhốt trong phòng kín, theo dõi mọi chuyện qua màn ảnh truyền hình). Ở đây xin mở một dấu ngoặc để nói về cái “hèn” của nhiều bị can vốn đã nhận tội và xin khoan hồng khi còn đang giai đoạn thẩm vấn, kể từ vụ Trộm cổ vật ở Bắc Giang năm 2006, vụ Nguyễn Phong+Nguyễn Bình Thành năm 2007, đến vụ Lê Công Định tháng 6-2009, và gần đây nhất là vụ Tam Tòa với bị can Nguyễn Quang Trung tháng 7-2009. Nhiều người đã vội phê phán họ “đầu hàng quá nhanh” và kết án họ “tỏ ra quá hèn”. Xin lưu ý rằng lúc “nhận tội”, họ đang ở trong giai đoạn thẩm vấn, giữa bàn tay công an, vốn nổi danh sắt máu và nham hiểm, đang bị khủng bố và tra tấn về tinh thần (có khi về thể xác), như bị phong tỏa khỏi mọi liên hệ, nhất là thân nhân gia đình và luật sư cố vấn, như bị thẩm vấn đêm khuya, trong tình trạng mất ngủ khiến ý chí kiệt quệ, như bị buộc xem những bài báo công cụ mạt sát lên án họ… Đó là chưa kể công an và báo chí chẳng bao giờ được đóng vai công tố hay thẩm phán. Thành ra không thể và không nên kết án các bị can nói trên là “hèn”.
Trở lại với cái hèn của CSVN. Cái hèn này thời gian gần đây bộc lộ rõ nét qua vụ Trung cộng ngày càng ngang ngược trên biển Đông và quanh Hoàng Trường Sa quần đảo, ngày càng cấm cản, bắt bớ, phá hoại, tàn sát dân Việt đánh cá trên vùng biển nước Việt. Trước những thảm cảnh của dân lành, của đồng bào, lực lượng hải quân thì trơ mắt đứng nhìn, lãnh đạo cộng sản thì ngậm miệng làm thinh, thậm chí còn xun xoe nịnh bợ hay cung cúc van nài đại ca nước lớn, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao thì vẫn cứ một điệp khúc nhàm chán: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền trên vùng đảo…., báo chí công cụ thì hoặc câm như hến, hoặc chỉ nói vu vơ là “tàu lạ”. Thật tự cổ chí kim và từ đông sang tây, chưa có một nhà cầm quyền nào hèn mạt đến thế!!
Cũng phải nói đến cái hèn của những kẻ đang nắm quyền lực tinh thần và đang có quần chúng sau lưng, bên dưới. Trước nguy cơ của đất nước vì mất nhiều vùng ở biên giới, ngoài hải phận, trên Tây Nguyên, trước thảm nạn chức sắc lẫn giáo đồ bị sách nhiễu, hành hung, điển hình là trong vụ Thái Hà và nhất là vụ Tam Tòa và vụ Bát Nhã gần đây, nhiều lãnh đạo tôn giáo cao cấp vẫn cứ câm như hến trước cường lực chính trị, vì sợ mất đi những ân huệ Nhà nước ban cho, đồng thời lại tìm cách bịt miệng bề dưới của mình, làm tê liệt sức mạnh tiềm tàng vô song của Giáo hội (x. bài “Tam Tòa? Chuyện nhỏ!” của Lm Nguyễn Ngọc Tỉnh và bài “Niềm đau vô tận” của Nguyên Chơn).
Như vậy, cái hèn đích thực tại Việt Nam hiện nằm nơi nhiều kẻ đang nắm quyền lực chính trị và quyền lực tinh thần, chứ không phải nằm nơi đám dân hèn đâu!!!
BAN BIÊN TẬP
Kể từ tháng 4 năm nay, thiên hạ (nhất là các công dân mạng) xôn xao về cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” đầy dũng cảm của nhạc sĩ Tô Hải. Tiếp đến, qua “Tuần kí số 11 ngày 05-07-2009”, cũng lại nhạc sĩ này bàn về cái hèn, trong đó ông phân loại: nào là cái hèn của báo chí, cái hèn của kẻ yếu, cái hèn giả vờ, cái hèn bất đắc dĩ…. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi, cái hèn tồi tệ nhất, đáng kinh tởm nhất, đáng khinh bỉ nhất là cái hèn được diễn tả qua thành ngữ “đánh kẻ dưới ngựa, bắn người sau lưng”. Nghĩa là cái hèn của kẻ có quyền lực trong tay (quyền lực chính trị, quyền lực tinh thần, quyền lực vật chất…), nhưng vì những toan tính xấu xa tàn ác, cuồng vọng thống trị độc tài, mà đã làm lắm điều bất nhân thất đức đối với những ai nằm dưới quyền của họ; hoặc vì khiếp nhược trước một quyền lực lớn hơn, họ lại phản ứng -theo lối mặc cảm bù trừ- bằng cách tàn hại những kẻ đang bị họ thống trị. Trên thực thế lịch sử, điều này được thấy rõ ràng trong các chế độ cộng sản.
Sau khi cướp được chính quyền (có lúc bằng gian manh xảo quyệt như tại Nga và Việt Nam), các đảng cộng sản đều che đậy thói đê hèn dưới mỹ từ “bạo lực cách mạng” hay “chuyên chính vô sản”, nghĩa là từ nay họ không thực thi quyền lực bằng lập luận dựa trên chân lý, bằng thuyết phục dựa trên công lý và thành quả, theo như lương tri và lương tâm thông thường của con người, mà bằng đàn áp với bạo lực hành chánh hay bạo lực vũ khí. Họ trị nước thay vì bằng cơ cấu tam quyền phân lập thì lại bằng tam quyền phân công, biến Quốc hội -tạo ra sau những cuộc bầu cử đầy gian trá và áp bức- thành lũ gia nô chỉ biết đưa ra hoặc sửa đổi các luật lệ theo ý đảng, có lợi cho đảng; biến Pháp viện, tòa án -tạo ra từ những kẻ thông thạo luật rừng, luật đảng hơn là luật pháp, luật lương tâm- thành lũ đười ươi (từ của Lm Nguyễn Văn Lý) chỉ biết xét xử và tuyên phạt với các “bản án bỏ túi” nhận từ đảng bộ hay từ chính trị bộ; biến cả hệ thống Chính quyền -tạo ra từ các đảng viên hồng hơn chuyên, giỏi hoạnh họe tham nhũng thay vì phục vụ- thành đám tay sai nô bộc chỉ biết mù quáng thực thi mệnh lệnh của đảng ủy địa phương hay trung ương. Đảng CS còn hèn đến độ biến quyền lực công luận (báo chí) thành những cái loa tuyên truyền ầm ĩ và lếu láo, biến quyền lực bảo an (quân đội và cảnh sát) thành những công cụ mù quáng và tàn bạo, biến quyền lực tinh thần (giới trí thức, giới tu sĩ quốc doanh) thành những con hến ngậm miệng hay những con vẹt lải nhải bài tụng ca. Trong hoàn cảnh ấy, toàn thể nhân dân chỉ còn là kẻ dưới ngựa cho đảng đánh xuống, chỉ còn là người đưa lưng cho đảng bắn vào.
Bên cạnh cái hèn bằng sử dụng bạo lực nói trên, cộng đảng VN còn tỏ ra hèn bằng thái độ khiếp nhược trước các cộng đảng cầm quyền lớn hơn mạnh hơn, như Liên xô hay Trung quốc chẳng hạn. Hồ Chí Minh, dù biết cuộc cải cách ruộng đất ở Liên xô và Trung quốc đầy huyết lệ và thất bại, nhưng vì khiếp sợ Stalin và Mao, đã vẫn xin chỉ thị từ hai tên đồ tể này (xem lá thư gởi Stalin ngày 31-10-1952). Cũng năm 1952, vì hèn trước các cố vấn và chuyên viên cải cách của Trung cộng, Hồ Chí Minh đã để mặc cho tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên kết án tử hình bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của đảng, người đã từng che chở, nuôi ăn chẳng những chính ông mà hầu hết các nhà lãnh đạo đảng. Cũng vì hèn mà Hồ Chí Minh đã ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958, lấy của Việt Nam Cộng Hòa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để dâng trên giấy cho ông anh vĩ đại, khiến ông anh này cứ mãi dựa vào đó để khẳng định chủ quyền. Cái hèn này đã lôi theo những cái hèn khác đối với Trung quốc, biểu lộ qua Hiệp định biên giới Việt-Trung ngày 30-12-1999 và Hiệp định lãnh hải Việt-Trung ngày 25-12-2000, dâng ngon ơ cho Tàu cộng hàng chục ngàn km2 đất và biển của Tiên tổ, qua Tuyên bố Việt-Trung tháng 12-2001 và tháng 06-2008, rồi qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007 cho phép TQ thực hiện dự án bauxite đầy nguy hiểm về văn hóa, sinh thái và an ninh trên vùng đất Tây Nguyên. Mới đây nhất, cái hèn của CSVN biểu lộ qua việc ký kết dâng Ải Nam quan và nhiều phần đất ở biên giới phía Bắc ngày 23-02-2009 với rất nhiều màu sắc và nghi lễ rộn ràng. Nhưng "vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu"! Và với mặc cảm bù trừ, CSVN quay lại cướp bóc đất đai của nhân dân và các tôn giáo cũng từ bấy nhiêu năm, hành hạ bỏ tù những ai đòi lại tài sản mình đã sở hữu chính đáng, dẹp tan các cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức, dân oan, nhà dân chủ phản đối Trung quốc xâm lược.
Cái hèn vì khiếp sợ trước một quyền lực lớn hơn khác là quyền lực tinh thần (nhưng rồi phản ứng lại bằng bạo lực vũ khí và bạo lực hành chánh) đã biểu lộ lần đầu tiên -xem ra thế- qua vụ luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức xuất chúng đương thời của Việt Nam. Sau khi mời luật sư cho ý kiến về cuộc Cải cách Ruộng đất vừa hạ màn ngày 20-07-1956 (với bài “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc ngày 30-10-1956), Hồ Chí Minh đã hèn mạt báo thù bằng cách đày đọa cho đến chết nhân tài đặc biệt, nhân sĩ ưu tú ấy. Tiếp theo đó là một trò hèn khác nhắm vào các trí thức văn nghệ sĩ có khát vọng tự do dân chủ và đầu óc suy tư độc lập vốn đã lên tiếng phê bình về những sai lầm tàn ác trong CCRĐ cũng như về chính sách khống chế kiểm soát thành phần trí tuệ của Dân tộc. Trò hèn của những tên đa phần thấp kém về tri thức và nhân cách này (trong đảng CS) đã gây ra thảm kịch mang “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm”! Vụ Mậu Thân với việc phản bội cam kết hưu chiến, giết hại dã man dân lành, loại trừ đồng đội trong “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” cũng là một trò hèn mạt của CS vốn còn ghi đậm nét trong lịch sử dân tộc.
Thời gian gần đây, kể từ thế kỷ XXI, với việc nổi dậy của nhân dân đủ mọi tầng lớp, việc cất tiếng của tôn giáo đủ mọi giáo hội, việc đứng lên của các nhà đối kháng đủ mọi thành phần, việc lấn lướt ngày càng ngang ngược của ngoại thù phương Bắc, cái hèn của đảng CSVN càng bộc lộ một cách chói chang. Bằng chứng là những cuộc đàn áp dã man tại Thái Hà (Hà Nội), Tam Tòa (Quảng Bình), Bát Nhã (Lâm Đồng) với sự cấu kết giữa công an với bọn côn đồ (chưa hẳn là xã hội đen) mang tên “quần chúng tự phát” và sự đổ lỗi đê tiện cho đám công cụ tay sai này. Bằng chứng là những cuộc bắt bớ tùy tiện, xét xử vô luật, kết án với tội danh vu vơ những ai tranh đấu cho công lý và tự do. Điển hình là những bức ảnh quanh và trong phòng xử án các nhà dân chủ, mà đặc biệt là hình linh mục Lý bị bịt miệng và trói tay trong phiên tòa ô nhục tháng 3-2007 tại Huế. Để bảo đảm sự chiến thắng của đảng trong những phiên tòa này, CS đã đê hèn tước mất mọi quyền cơ bản của các bị can: không cho họ có luật sư cố vấn khi bắt đầu tiến trình thẩm vấn, để công an chấp pháp mặc sức khủng bố tinh thần và đưa vào tròng bẫy, không cho bị can được quyền thuê mướn những luật sư vừa ý, hoặc có cho thì chẳng để các luật sư đủ thì giờ gặp gỡ bị can, đủ điều kiện thu thập tài liệu, không cho các luật sư được trình bày cách tự do và đầy đủ bài bào chữa, hoặc có cho thì công tố và quan tòa vẫn chẳng thèm nghe, không cho thân nhân bạn hữu hay báo chí quốc tế tham dự phiên tòa, vì muốn tước mất sự trợ lực tinh thần mà bị can có quyền được hưởng (báo chí nếu có mặt thì bị nhốt trong phòng kín, theo dõi mọi chuyện qua màn ảnh truyền hình). Ở đây xin mở một dấu ngoặc để nói về cái “hèn” của nhiều bị can vốn đã nhận tội và xin khoan hồng khi còn đang giai đoạn thẩm vấn, kể từ vụ Trộm cổ vật ở Bắc Giang năm 2006, vụ Nguyễn Phong+Nguyễn Bình Thành năm 2007, đến vụ Lê Công Định tháng 6-2009, và gần đây nhất là vụ Tam Tòa với bị can Nguyễn Quang Trung tháng 7-2009. Nhiều người đã vội phê phán họ “đầu hàng quá nhanh” và kết án họ “tỏ ra quá hèn”. Xin lưu ý rằng lúc “nhận tội”, họ đang ở trong giai đoạn thẩm vấn, giữa bàn tay công an, vốn nổi danh sắt máu và nham hiểm, đang bị khủng bố và tra tấn về tinh thần (có khi về thể xác), như bị phong tỏa khỏi mọi liên hệ, nhất là thân nhân gia đình và luật sư cố vấn, như bị thẩm vấn đêm khuya, trong tình trạng mất ngủ khiến ý chí kiệt quệ, như bị buộc xem những bài báo công cụ mạt sát lên án họ… Đó là chưa kể công an và báo chí chẳng bao giờ được đóng vai công tố hay thẩm phán. Thành ra không thể và không nên kết án các bị can nói trên là “hèn”.
Trở lại với cái hèn của CSVN. Cái hèn này thời gian gần đây bộc lộ rõ nét qua vụ Trung cộng ngày càng ngang ngược trên biển Đông và quanh Hoàng Trường Sa quần đảo, ngày càng cấm cản, bắt bớ, phá hoại, tàn sát dân Việt đánh cá trên vùng biển nước Việt. Trước những thảm cảnh của dân lành, của đồng bào, lực lượng hải quân thì trơ mắt đứng nhìn, lãnh đạo cộng sản thì ngậm miệng làm thinh, thậm chí còn xun xoe nịnh bợ hay cung cúc van nài đại ca nước lớn, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao thì vẫn cứ một điệp khúc nhàm chán: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền trên vùng đảo…., báo chí công cụ thì hoặc câm như hến, hoặc chỉ nói vu vơ là “tàu lạ”. Thật tự cổ chí kim và từ đông sang tây, chưa có một nhà cầm quyền nào hèn mạt đến thế!!
Cũng phải nói đến cái hèn của những kẻ đang nắm quyền lực tinh thần và đang có quần chúng sau lưng, bên dưới. Trước nguy cơ của đất nước vì mất nhiều vùng ở biên giới, ngoài hải phận, trên Tây Nguyên, trước thảm nạn chức sắc lẫn giáo đồ bị sách nhiễu, hành hung, điển hình là trong vụ Thái Hà và nhất là vụ Tam Tòa và vụ Bát Nhã gần đây, nhiều lãnh đạo tôn giáo cao cấp vẫn cứ câm như hến trước cường lực chính trị, vì sợ mất đi những ân huệ Nhà nước ban cho, đồng thời lại tìm cách bịt miệng bề dưới của mình, làm tê liệt sức mạnh tiềm tàng vô song của Giáo hội (x. bài “Tam Tòa? Chuyện nhỏ!” của Lm Nguyễn Ngọc Tỉnh và bài “Niềm đau vô tận” của Nguyên Chơn).
Như vậy, cái hèn đích thực tại Việt Nam hiện nằm nơi nhiều kẻ đang nắm quyền lực chính trị và quyền lực tinh thần, chứ không phải nằm nơi đám dân hèn đâu!!!
BAN BIÊN TẬP
samedi 15 août 2009
Có quyết tâm thì chống được tham nhũng
--------------------------------------------------------------------------------
Ngô Nhân Dụng, Người Việt Online
13.08.2009
Báo chí trong nước mới loan tin về một bản báo cáo do Tòa Ðại Sứ Ðan Mạch ở Hà Nội mới công bố tuần này. Các chuyên gia của Bộ Ngoại Giao Ðan Mạch nghiên cứu về tình trạng phòng chống tham nhũng tại Việt Nam đã đưa ra những câu hỏi về nhận định của Bộ Xây dựng chính phủ Việt Nam rút kinh nghiệm “hai năm thực hiện phòng chống tham nhũng (2006-2008)” trong đó họ kết luận rằng “mức độ tham nhũng và lãng phí đã giảm hẳn.”
Câu hỏi là: Khi thấy số trường hợp tham nhũng bị phát hiện giảm đi thì Bộ Xây Dựng coi là “mức độ tham nhũng đã giảm;” nhưng phải tự hỏi lý do vì sao số các vụ tham nhũng lại giảm. Hoặc là số người tham nhũng và số tiền tham nhũng giảm đi nhờ có các biện pháp phòng ngừa mới. Hoặc là khả năng khám phá và tố cáo các vụ ăn cắp của các cơ quan chịu trách nhiệm chống tham nhũng đã giảm bớt. Cũng giống như khi thấy hàn thử biểu đo nhiệt độ của một bệnh nhân giảm xuống thì có thể vì một trong hai lý do: Bệnh sốt đã thuyên giảm thật; hoặc cái nhiệt kế nó bị “tê liệt” rồi!
Bộ Xây Dựng ở Hà Nội từng nổi danh về những vụ khám phá cột xi măng bê tông cốt bằng tre; nhưng những người đầu tiên khám phá ra cái tài “xây dựng hiện đại” này là các trẻ em đi ăn trộm. Các em đào, đẽo cột bê tông để lấy sắt đem bán mà không thấy sắt chỉ thấy tre! Một vụ các quan chức trong Bộ Xây Dựng bị đưa ra tòa vì tham nhũng chỉ xẩy ra sau khi một người bị bắt vì đi đánh bạc thua vài triệu đô la. Nếu không có các cảnh sát bắt bạc thì cũng không có việc “phát hiện” này. Rồi tới vụ đường đại lộ xuyên thành phố Sài Gòn bị phát hiện cũng là do mấy ông cảnh sát Nhật Bản đi bắt các người quản lý công ty Nhật về tội hối lộ các quan chức Việt Nam.
Như vậy thì nếu trong những năm 2006-2008 số thống kê những vụ tham nhũng giảm đi không phải chỉ vì các quan chức bỗng tu tâm sửa tính hay luật lệ nghiêm minh hơn; mà có thể vì người ta không có dịp “phát hiện” tham nhũng nữa. Mà điều này cũng dễ hiểu. Sau khi các nhà báo bị bắt bỏ tù vì tội đi điều tra tham nhũng rồi, còn ai có “nhã hứng” đi tìm tòi nữa làm chi?
Bản nghiên cứu của các chuyên gia Ðan Mạch nêu lên một số nguyên nhân khiến công việc tìm tòi và khám phá: “(1)do các cơ quan chức năng không đủ thẩm quyền; (2) do các luật và quy định vênh nhau, không có hướng dẫn và chỉ thị cụ thể, rõ ràng; (3) không có cơ chế khuyến khích cho những người làm tốt; và (4) không có cơ chế giải trình cũng như không có cơ quan kiểm tra và hệ thống giám sát độc lập.” Cả một bản báo cáo 4 không trên đây tóm tắt lại, là do người ta không thật tình muốn chống tham nhũng! Nếu thật tình thì người ngu đến mấy cũng phải biết: (1) trao cho các cơ quan lo chống tham nhũng đầy đủ thẩm quyền để làm việc; (2) đặt các quy luật rõ ràng để họ làm việc; (3) tưởng thưởng những người tố cáo tham nhũng thay vì bỏ tù người ta và (4) đặt đường dây tố cáo tham nhũng độc lập với những cơ quan làm công việc dễ tham nhũng, và đặt ra những cơ quan điều tra, truy tố độc lập.
Khi nói đến việc chống tham nhũng, nhiều người thường nhún vai tỏ ý tuyệt vọng, nói rằng công việc này khó lắm, phức tạp lắm, chính quyền nào cũng chịu thua những cái vòi bạch tuộc tham nhũng.
Nhưng lý do quan trọng nhất vẫn là thiếu quyết tâm. Một chính quyền quyết tâm chống tham nhũng thì sớm hay muộn cũng tìm ra cách chống tham nhũng.
Xin kể một câu chuyện cũng khó khăn tương tự như việc chống tham nhũng để chúng ta thấy không nên nản lòng. Ðó là kinh nghiệm chống cướp bóc, trấn lột trong hệ thống đường xe điện ngầm ở New York vào đầu thập niên 1990. Không cần đặt ra thêm luật lệ, không cần cổ động rùm beng, chỉ cần quyết tâm, một vấn đề nhức nhối kéo dài mấy chục năm cuối cùng có phương pháp giải quyết.
Ðường xe điện ngầm trong thành phố New York nổi tiếng nhiều tội phạm khiến nhiều người không dám sử dụng, nhất là vào ban đêm. Tội ác tràn lan như một thứ bệnh truyền nhiễm, người ta cũng thấy tuyệt vọng, nghĩ rằng không có cách nào bài trừ được. Năm 1984 có một vụ án mạng cả thế giới đều nghe tin, là vụ Bernhard Goetz bắn chết mấy thanh niên da đen trong đường xe điện ngầm khi mấy cậu này vây quanh anh ta rồi thản nhiên bảo anh ta đưa tiền, giữa ban ngày và trong một toa xe có nhiều hành khách khác. Goetz hỏi lại: Các anh muốn gì? Trả lời: Năm đô la! Goetz rút khẩu súng trong túi ra bắn từng người một, rồi tới trạm sau thì thản nhiên đi ra khỏi xe, lên đường. Mấy ngày sau, báo chí khắp nơi đã loan tin, Goetz ra trình diện cảnh sát.
Năm 1990 cơ quan Chuyên Chở New York bổ William Bratton làm cảnh sát trưởng cho cả hệ thống đường xe điện ngầm. Bratton là người tin ở lý thuyết “Cửa Sổ Hư” (Broken Windows) của các nhà nghiên cứu về tội phạm. Thuyết này cho là những căn nhà vô chủ, cửa sổ bị phá vỡ không ai sửa sang, là một nguyên nhân chính tạo nên những khu phố đầy tội phạm. Những trẻ em thiếu giáo dục sẽ tới vẽ bậy lên tường, phá thêm những cửa sổ khác, rồi các tay giang hồ sẽ tìm cách vào trong nhà đó, dùng làm sào huyệt và nơi giải trí, trao đổi,buôn bán ma túy, và tổ chức những tội ác khác. Muốn ngăn ngừa chuyện này, thành phố thấy nơi nào có cửa sổ vỡ kính phải tới sửa ngay, để không cho tội ác nẩy mầm.
Bratton giải quyết vấn đề tội phạm trong hệ thống xe điện ngầm New York bằng cách tấn công một trọng điểm làm gương. Ðó là bắt phạt những người đi xe điện ngầm lậu, không mua vé. Mỗi ngày có khoảng 170,000 người đi lậu trong hệ thống đường xe điện ngầm New York! Có khi một đám thiếu niên nhẩy hàng rào bước vào, cười nói, nhởn nhơ đi trên chỗ chờ xe điện, thế là mấy người lớn cũng bắt chước! Bratton tin rằng đa số những tay gây tội phạm cũng là những tay nhẩy hàng rào, đi xe không trả tiền. Nhưng lý do quan trọng hơn là hình ảnh những thanh thiếu niên nhẩy rào đi xe lậu là một “dấu hiệu xấu” giống như cảnh những khung cửa sổ kính bị bể; khiến cho người ta có cảm tưởng là quanh đây là một nơi vô pháp luật, ai muốn làm gì thì làm. Chiến thuật của Bratton cũng rút từ kinh nghiệm của cơ quan Chuyên Chở New York trong một chiến dịch bài trừ nạn viết bậy trên tường và trên thành, cửa các toa xe. Họ quyết tâm hễ thấy một hình, một chữ viết hay vẽ bậy nào là xóa bỏ ngay, không để cho ai thấy rồi bắt chước. Trong vòng 5 năm, cả hệ thống đường xe điện ngầm New York đã hết cảnh viết, vẽ bậy (graffiti).
Tại sao ban giám đốc cơ quan Chuyên Chở không bài trừ nạn đi xe lậu này từ trước? Vì họ thấy vấn đề nặng nề quá, mối lợi nhỏ mà công sức bỏ ra lớn không bõ, nên thà chịu bó tay. Mỗi vé xe điện lúc đó chỉ có 1.25 đô la. Sở cảnh sát thấy không đáng công đi bắt mấy cậu bé con, mất công đưa về sở hỏi cung, làm tờ trình, tất cả mất một buổi; rồi sau đó lại chờ ngày truy tố mấy chú bé ra tòa, để đòi hơn một đô la!
Bratton đã chọn một trạm có những hành khách nhảy hàng rào nhiều nhất, đặt 10 cảnh sát viên tại đó, thấy cậu nào đi lậu bắt ngay tại chỗ, còng tay, cho đứng xếp hàng chờ đợi cho bàn dân thiên hạ ngó. Thay vì đưa các người vi phạm về sở cảnh sát, Bratton cho lập luôn một văn phòng lưu động trong trạm xe điện, làm việc tại chỗ, mỗi trường hợp chỉ mất một tiếng đồng hồ.
Riêng khung cảnh trên đã là một tín hiệu cho tất cả mọi người thấy “quyết tâm” làm việc của cảnh sát. Nhưng Bratton còn ra lệnh các cảnh sát viên phải khám xét và truy tầm lý lịch các tay đi xe lậu, nhờ thế khám phá ra nhiều tay có đem súng trong túi hoặc đã từng bị bắt về những tội nho nhỏ.
Sau một thời gian, số người đi xe điện lậu giảm, và nhiều kẻ gian không dám mang vũ khí vào trong hệ thống xe điện ngầm. Cùng lúc đó, cảnh sát xe điện đi bắt những người say rượu hoặc ngủ trong hầm xe điện, hoặc có những hành động lỗ mãng. Trong 5 năm trời Bratton đã chứng tỏ cho công chúng thấy, và những kẻ gian phải thấy là cảnh sát trong đường xe điện New York nhất định bài trừ những tội phạm dù nhỏ nhặt nhất; và họ làm việc hữu hiệu. Từ đó số tội phạm trong hệ thống xe điện ngầm New York giảm hẳn. Năm 1994, ông thị trưởng mới của New York mời Bratton làm cảnh sát trưởng thành phố. Năm năm sau, số tội phạm trong thành phố này cũng giảm bớt, ông thị trưởng nổi tiếng, có lúc nhiều triển vọng ứng cử làm tổng thống Mỹ. Ngày nay, dân New York sống trong trật tự, an ninh hơn trước, nhờ những người quyết tâm giải quyết một vấn đề tưởng như nan giải.
Một câu chuyện trên cho thấy có những vấn đề xã hội tưởng như là nan giải, nhưng vẫn giải quyết được nếu người ta có quyết tâm. Cảnh sát New York không cần thêm những đạo luật bài trừ tội phạm mới nào. Không cần thêm quyền hành hoặc ngân sách lớn lao nào. Ðiều quan trọng nhất là quyết tâm.
Cho nên nếu đồng bào Việt Nam mình muốn bài trừ tham nhũng thì cũng cần một hành động quyết tâm. Phải thay đổi cái cơ chế gây nên đại họa tham nhũng này. Cơ chế đó là độc quyền chính trị của một đảng bịt miệng toàn dân không cho nói.
Nguồn: Người Việt Online
Ngô Nhân Dụng, Người Việt Online
13.08.2009
Báo chí trong nước mới loan tin về một bản báo cáo do Tòa Ðại Sứ Ðan Mạch ở Hà Nội mới công bố tuần này. Các chuyên gia của Bộ Ngoại Giao Ðan Mạch nghiên cứu về tình trạng phòng chống tham nhũng tại Việt Nam đã đưa ra những câu hỏi về nhận định của Bộ Xây dựng chính phủ Việt Nam rút kinh nghiệm “hai năm thực hiện phòng chống tham nhũng (2006-2008)” trong đó họ kết luận rằng “mức độ tham nhũng và lãng phí đã giảm hẳn.”
Câu hỏi là: Khi thấy số trường hợp tham nhũng bị phát hiện giảm đi thì Bộ Xây Dựng coi là “mức độ tham nhũng đã giảm;” nhưng phải tự hỏi lý do vì sao số các vụ tham nhũng lại giảm. Hoặc là số người tham nhũng và số tiền tham nhũng giảm đi nhờ có các biện pháp phòng ngừa mới. Hoặc là khả năng khám phá và tố cáo các vụ ăn cắp của các cơ quan chịu trách nhiệm chống tham nhũng đã giảm bớt. Cũng giống như khi thấy hàn thử biểu đo nhiệt độ của một bệnh nhân giảm xuống thì có thể vì một trong hai lý do: Bệnh sốt đã thuyên giảm thật; hoặc cái nhiệt kế nó bị “tê liệt” rồi!
Bộ Xây Dựng ở Hà Nội từng nổi danh về những vụ khám phá cột xi măng bê tông cốt bằng tre; nhưng những người đầu tiên khám phá ra cái tài “xây dựng hiện đại” này là các trẻ em đi ăn trộm. Các em đào, đẽo cột bê tông để lấy sắt đem bán mà không thấy sắt chỉ thấy tre! Một vụ các quan chức trong Bộ Xây Dựng bị đưa ra tòa vì tham nhũng chỉ xẩy ra sau khi một người bị bắt vì đi đánh bạc thua vài triệu đô la. Nếu không có các cảnh sát bắt bạc thì cũng không có việc “phát hiện” này. Rồi tới vụ đường đại lộ xuyên thành phố Sài Gòn bị phát hiện cũng là do mấy ông cảnh sát Nhật Bản đi bắt các người quản lý công ty Nhật về tội hối lộ các quan chức Việt Nam.
Như vậy thì nếu trong những năm 2006-2008 số thống kê những vụ tham nhũng giảm đi không phải chỉ vì các quan chức bỗng tu tâm sửa tính hay luật lệ nghiêm minh hơn; mà có thể vì người ta không có dịp “phát hiện” tham nhũng nữa. Mà điều này cũng dễ hiểu. Sau khi các nhà báo bị bắt bỏ tù vì tội đi điều tra tham nhũng rồi, còn ai có “nhã hứng” đi tìm tòi nữa làm chi?
Bản nghiên cứu của các chuyên gia Ðan Mạch nêu lên một số nguyên nhân khiến công việc tìm tòi và khám phá: “(1)do các cơ quan chức năng không đủ thẩm quyền; (2) do các luật và quy định vênh nhau, không có hướng dẫn và chỉ thị cụ thể, rõ ràng; (3) không có cơ chế khuyến khích cho những người làm tốt; và (4) không có cơ chế giải trình cũng như không có cơ quan kiểm tra và hệ thống giám sát độc lập.” Cả một bản báo cáo 4 không trên đây tóm tắt lại, là do người ta không thật tình muốn chống tham nhũng! Nếu thật tình thì người ngu đến mấy cũng phải biết: (1) trao cho các cơ quan lo chống tham nhũng đầy đủ thẩm quyền để làm việc; (2) đặt các quy luật rõ ràng để họ làm việc; (3) tưởng thưởng những người tố cáo tham nhũng thay vì bỏ tù người ta và (4) đặt đường dây tố cáo tham nhũng độc lập với những cơ quan làm công việc dễ tham nhũng, và đặt ra những cơ quan điều tra, truy tố độc lập.
Khi nói đến việc chống tham nhũng, nhiều người thường nhún vai tỏ ý tuyệt vọng, nói rằng công việc này khó lắm, phức tạp lắm, chính quyền nào cũng chịu thua những cái vòi bạch tuộc tham nhũng.
Nhưng lý do quan trọng nhất vẫn là thiếu quyết tâm. Một chính quyền quyết tâm chống tham nhũng thì sớm hay muộn cũng tìm ra cách chống tham nhũng.
Xin kể một câu chuyện cũng khó khăn tương tự như việc chống tham nhũng để chúng ta thấy không nên nản lòng. Ðó là kinh nghiệm chống cướp bóc, trấn lột trong hệ thống đường xe điện ngầm ở New York vào đầu thập niên 1990. Không cần đặt ra thêm luật lệ, không cần cổ động rùm beng, chỉ cần quyết tâm, một vấn đề nhức nhối kéo dài mấy chục năm cuối cùng có phương pháp giải quyết.
Ðường xe điện ngầm trong thành phố New York nổi tiếng nhiều tội phạm khiến nhiều người không dám sử dụng, nhất là vào ban đêm. Tội ác tràn lan như một thứ bệnh truyền nhiễm, người ta cũng thấy tuyệt vọng, nghĩ rằng không có cách nào bài trừ được. Năm 1984 có một vụ án mạng cả thế giới đều nghe tin, là vụ Bernhard Goetz bắn chết mấy thanh niên da đen trong đường xe điện ngầm khi mấy cậu này vây quanh anh ta rồi thản nhiên bảo anh ta đưa tiền, giữa ban ngày và trong một toa xe có nhiều hành khách khác. Goetz hỏi lại: Các anh muốn gì? Trả lời: Năm đô la! Goetz rút khẩu súng trong túi ra bắn từng người một, rồi tới trạm sau thì thản nhiên đi ra khỏi xe, lên đường. Mấy ngày sau, báo chí khắp nơi đã loan tin, Goetz ra trình diện cảnh sát.
Năm 1990 cơ quan Chuyên Chở New York bổ William Bratton làm cảnh sát trưởng cho cả hệ thống đường xe điện ngầm. Bratton là người tin ở lý thuyết “Cửa Sổ Hư” (Broken Windows) của các nhà nghiên cứu về tội phạm. Thuyết này cho là những căn nhà vô chủ, cửa sổ bị phá vỡ không ai sửa sang, là một nguyên nhân chính tạo nên những khu phố đầy tội phạm. Những trẻ em thiếu giáo dục sẽ tới vẽ bậy lên tường, phá thêm những cửa sổ khác, rồi các tay giang hồ sẽ tìm cách vào trong nhà đó, dùng làm sào huyệt và nơi giải trí, trao đổi,buôn bán ma túy, và tổ chức những tội ác khác. Muốn ngăn ngừa chuyện này, thành phố thấy nơi nào có cửa sổ vỡ kính phải tới sửa ngay, để không cho tội ác nẩy mầm.
Bratton giải quyết vấn đề tội phạm trong hệ thống xe điện ngầm New York bằng cách tấn công một trọng điểm làm gương. Ðó là bắt phạt những người đi xe điện ngầm lậu, không mua vé. Mỗi ngày có khoảng 170,000 người đi lậu trong hệ thống đường xe điện ngầm New York! Có khi một đám thiếu niên nhẩy hàng rào bước vào, cười nói, nhởn nhơ đi trên chỗ chờ xe điện, thế là mấy người lớn cũng bắt chước! Bratton tin rằng đa số những tay gây tội phạm cũng là những tay nhẩy hàng rào, đi xe không trả tiền. Nhưng lý do quan trọng hơn là hình ảnh những thanh thiếu niên nhẩy rào đi xe lậu là một “dấu hiệu xấu” giống như cảnh những khung cửa sổ kính bị bể; khiến cho người ta có cảm tưởng là quanh đây là một nơi vô pháp luật, ai muốn làm gì thì làm. Chiến thuật của Bratton cũng rút từ kinh nghiệm của cơ quan Chuyên Chở New York trong một chiến dịch bài trừ nạn viết bậy trên tường và trên thành, cửa các toa xe. Họ quyết tâm hễ thấy một hình, một chữ viết hay vẽ bậy nào là xóa bỏ ngay, không để cho ai thấy rồi bắt chước. Trong vòng 5 năm, cả hệ thống đường xe điện ngầm New York đã hết cảnh viết, vẽ bậy (graffiti).
Tại sao ban giám đốc cơ quan Chuyên Chở không bài trừ nạn đi xe lậu này từ trước? Vì họ thấy vấn đề nặng nề quá, mối lợi nhỏ mà công sức bỏ ra lớn không bõ, nên thà chịu bó tay. Mỗi vé xe điện lúc đó chỉ có 1.25 đô la. Sở cảnh sát thấy không đáng công đi bắt mấy cậu bé con, mất công đưa về sở hỏi cung, làm tờ trình, tất cả mất một buổi; rồi sau đó lại chờ ngày truy tố mấy chú bé ra tòa, để đòi hơn một đô la!
Bratton đã chọn một trạm có những hành khách nhảy hàng rào nhiều nhất, đặt 10 cảnh sát viên tại đó, thấy cậu nào đi lậu bắt ngay tại chỗ, còng tay, cho đứng xếp hàng chờ đợi cho bàn dân thiên hạ ngó. Thay vì đưa các người vi phạm về sở cảnh sát, Bratton cho lập luôn một văn phòng lưu động trong trạm xe điện, làm việc tại chỗ, mỗi trường hợp chỉ mất một tiếng đồng hồ.
Riêng khung cảnh trên đã là một tín hiệu cho tất cả mọi người thấy “quyết tâm” làm việc của cảnh sát. Nhưng Bratton còn ra lệnh các cảnh sát viên phải khám xét và truy tầm lý lịch các tay đi xe lậu, nhờ thế khám phá ra nhiều tay có đem súng trong túi hoặc đã từng bị bắt về những tội nho nhỏ.
Sau một thời gian, số người đi xe điện lậu giảm, và nhiều kẻ gian không dám mang vũ khí vào trong hệ thống xe điện ngầm. Cùng lúc đó, cảnh sát xe điện đi bắt những người say rượu hoặc ngủ trong hầm xe điện, hoặc có những hành động lỗ mãng. Trong 5 năm trời Bratton đã chứng tỏ cho công chúng thấy, và những kẻ gian phải thấy là cảnh sát trong đường xe điện New York nhất định bài trừ những tội phạm dù nhỏ nhặt nhất; và họ làm việc hữu hiệu. Từ đó số tội phạm trong hệ thống xe điện ngầm New York giảm hẳn. Năm 1994, ông thị trưởng mới của New York mời Bratton làm cảnh sát trưởng thành phố. Năm năm sau, số tội phạm trong thành phố này cũng giảm bớt, ông thị trưởng nổi tiếng, có lúc nhiều triển vọng ứng cử làm tổng thống Mỹ. Ngày nay, dân New York sống trong trật tự, an ninh hơn trước, nhờ những người quyết tâm giải quyết một vấn đề tưởng như nan giải.
Một câu chuyện trên cho thấy có những vấn đề xã hội tưởng như là nan giải, nhưng vẫn giải quyết được nếu người ta có quyết tâm. Cảnh sát New York không cần thêm những đạo luật bài trừ tội phạm mới nào. Không cần thêm quyền hành hoặc ngân sách lớn lao nào. Ðiều quan trọng nhất là quyết tâm.
Cho nên nếu đồng bào Việt Nam mình muốn bài trừ tham nhũng thì cũng cần một hành động quyết tâm. Phải thay đổi cái cơ chế gây nên đại họa tham nhũng này. Cơ chế đó là độc quyền chính trị của một đảng bịt miệng toàn dân không cho nói.
Nguồn: Người Việt Online
mercredi 12 août 2009
Nguyễn Tấn Dũng bịt miệng cả nước
Tuesday, August 11, 2009
Ngô Nhân Dụng
Hôm qua có một bản tin đưa ra trên mạng lưới, đọc qua thấy là một tin đùa cợt. Bản tin nói rằng ông bộ trưởng Bộ Văn Phòng Chính Phủ gửi một cái thông báo “nội bộ” về “tin đồn 150 triệu đô la” dính đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Ðọc xong thì thấy đây chắc là anh chị em nào muốn đùa chơi. Vì theo lời lẽ trong thông báo nội bộ này, một là, hai là... cho tới năm là, bao nhiêu điều biện hộ cho ông Nguyễn Tấn Dũng, không có một chỗ nào xác định rằng “Ông Nguyễn Tấn Dũng không nhận 150 triệu đô la nào để cho khai thác bô xít ở Việt Nam cả.”
Người viết bản tin đùa cợt trên cốt ý nhắc nhở bà con đến cái tin đồn ông Dũng và vụ 150 triệu đô la mà thôi. Nhiều người đem cái tin trên chuyển đi khắp nơi cho bạn bè, lối xóm đọc, cho thấy người ta tin rằng đây là tin có thật. Hoặc ít nhất, họ tin rằng vụ 150 triệu là có thật! Nếu bây giờ các ông trong nhà nước Nguyễn Tấn Dũng mắc bẫy, viết một bản thông báo mới để phủ nhận tin đồn trên, thì mới thật là khôi hài. Thí dụ, ông bộ trưởng văn phòng chính phủ có thể viết rằng rằng trong mấy ngày qua ông không hề viết bản một “thông báo nội bộ” nào với nội dung bác bỏ tin đồn ông Nguyễn Tấn Dũng được hối lộ 150 triệu đô la cả. Do đó, ông xác nhận các tin đồn mới đưa ra nói rằng ông đã ra thông cáo phủ nhận tin đồn 150 triệu đô la là hoàn toàn bịa đặt của những kẻ xấu! Liệu chuyện khôi hài này có thể xẩy ra được không? Có thể lắm. Chính quyền Nguyễn Tấn Dũng có khả năng làm nhiều chuyện còn buồn cười hơn nữa, nhiều chuyện có thể gọi là “cực kỳ hài hước!”
Thí dụ, khi người ta hỏi ông yêu thích cái gì nhất, thì thay vì nói như người bình thường rằng mình yêu vợ, yêu con, yêu đảng, yêu nước, vân vân, ông Nguyễn Tấn Dũng lại tuyên bố rất hùng hổ rằng ông chỉ yêu có “sự thật” thôi! Ngầm hiểu rằng ông yêu cái gọi là “sự thật” hơn cả yêu vợ, yêu con, yêu tổ tiên, yêu đảng, vân vân.
Nhưng sau khi nói xong câu đó, Nguyễn Tấn Dũng lập tức ra lệnh bắt mấy anh nhà báo đưa ra tòa! Mấy ông ký giả nghe lời ông thủ tướng hăm hở đi tìm sự thật trong những vụ tham nhũng tầy trời, đùng một cái bị tóm, ngẩn người ra không biết tại sao!
Tiếp theo, một quan lớn làm việc thông tin trong chính quyền ra lệnh báo chí phải đi đúng lề bên phải, không được đi qua bên trái. Lúc đó mới hiểu có những “sự thật” ở cả hai bên đường nhưng đảng và nhà nước chỉ cho phép ngó vô những “sự thật lề bên phải” mà thôi! Nhưng trên đường có người đi ngược, người đi xuôi, bố ai biết lề đường bên nào mới thật là lề bên phải? Cách tốt nhất là nhắm mắt không nhìn, không nghe, không nói một “sự thật” nào nữa! Cái óc hài hước của ông Nguyễn Tấn Dũng đã phát triển lên hàng “cao cấp” khi ông ký một cái quyết định số 97, áp dụng kể từ ngày 15 Tháng Chín, 2009, tức là tuần sau. Nội dung quyết định này nhằm lập hàng rào cản ngăn cấm không cho người dân tự do “phản biện.” Ðặc biệt là những người trong các tổ chức khoa học và công nghệ, họ không được nhân danh tổ chức của mình mà công bố các ý kiến “phản biện” đối với những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước Cộng Sản. Vậy người dân Việt Nam nghe các đường lối, chính sách của đảng rồi muốn “phản biện” thì họ phải làm gì, cho đúng khẩu hiệu “Ðảng lắng nghe Dân”? Theo quyết định số 97 thì ai muốn “phản biện” cái gì thì hãy đem các ý kiến đó nộp cho các cơ quan nhà nước! Ðọc bản tin trên phải bật buồn cười. Tuy nhiên, đây không phải là một bản tin đùa cợt như câu chuyện 150 triệu đô la. Vì tin tức này được đăng trên tạp chí Pháp Luật xuất bản ở Sài Gòn, với những bài phỏng vấn và ý kiến bình luận kèm theo. Tức là cái quyết định số 97 của ông Nguyễn Tấn Dũng là có thật. Và nội dung của quyết định này đúng như báo Pháp Luật đã đưa ra, là có thật.
Một điểm hài hước đầu tiên là cách dùng hai chữ “phản biện.” Ðó là hai chữ gốc cũng từ Trung Quốc đưa qua, mặc dù không dính dáng gì tới chuyện khai thác Bô xít cả. Hai chữ này có nghĩa rất rộng, cho nên cũng trở thành trừu tượng. Thế nào là phản biện các đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước? Theo lối bình dân thì ta nói là “góp ý kiến với,” hoặc mạnh hơn, nói là “phản đối,” hoặc là “bắt bẻ,” hay “phản bác,” vân vân. Một người góp ý kiến với các đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trong đó hoàn toàn ủng hộ nhưng chỉ có một điều coi là sai, cũng là “phản biện.” Tại sao phải dùng một từ trừu tượng, có nghĩa rất rộng như vậy, khi muốn ký một cái quyết định ra lệnh dân chúng phải “phản biện đúng lề đường bên phải?” Không phải vì các ông nhà nước thích chữ Hán, không phải họ tin tưởng rằng “Chữ Hán còn thì người Hán còn.” Nhưng dùng những chữ Hán với nghĩa rộng rãi để viết một quyết định thì sau này các ông dễ xoay xở, lúc nào muốn gọi cái gì là “phản biện,” theo luật phải cấm, hay là không phải “phản biện,” không bị cấm, cũng được hết! Xưa nay ở cái nước “Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa” này nhà nước vốn đã có quyền cấm gì thì cấm, cho gì thì cho, phải bầy đặt rắc rối như vậy làm gì không biết!
Ví thử bây giờ chúng ta dịch hai chữ “phản biện” là “đóng góp ý kiến,” thì tính hài hước của cái quyết định 97 mà Nguyễn Tấn Dũng mới ký càng rõ rệt hơn.
Cái ông thủ tướng tự xưng mình là người yêu sự thật ra lệnh cho dân rằng ai muốn “góp ý kiến với những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước” thì phải đưa ý kiến của họ cho các “cơ quan có thẩm quyền” mà thôi.
Như vậy thì giữa hai thằng dân đi ngoài đường, không ai được “phản biện” với nhau bất cứ điều gì về những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước cả! Thí dụ có một thằng dân nghe báo nghe đài loan tin một công ty Trung Quốc đang đưa hàng ngàn công nhân người Trung Quốc vào nước ta khai thác bô xít, và ông thủ tướng tuyên bố chính sách bô xít là đường lối, chủ trương lớn của đảng và nhà nước, thằng dân thắc mắc về nhà hỏi vợ: “Bô xít là cái gì, má thằng nhỏ có biết không?” Làm như vậy là vi phạm quyết định số 97! Bởi vì má thằng nhỏ không phải là “cơ quan có thẩm quyền” để nói chuyện bô xít, bô xịt gì hết! Mà không cứ chuyện bô xít, bất cứ cái gì được “đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước” đụng vào đều bị cấm hết! Không được góp ý kiến nào với ai cả, ngoài việc bẩm báo với đảng và nhà nước! Ðó là mục tiêu của quyết định số 97! Nhưng quyết định 97 của Nguyễn Tấn Dũng không nhắm vào những thằng dân bình thường, mà nhắm vào giới trí thức, trong đó có các nhà khoa học và kỹ thuật gia ở trong nước! Cho nên trong quyết định có cả những đoạn dài nói riêng về những người này. Gần đây đã có phong trào bàn tán về việc khai thác bô xít. Hàng vạn người đã góp ý kiến với nhau, đã thảo luận công khai trên mạng lưới. Trong đó có những nhà văn, nhà nghiên cứu, các khoa học gia, và cả những cựu tướng lãnh. Lại có một phong trào bàn tán về chủ quyền đất nước ở biển Ðông. Các ông hòa thượng, các ngài linh mục, giám mục, các sử gia cũng đem ra bàn tán và bầy tỏ ý kiến công khai. Những hoạt động đó đều có thể gọi là “phản biện” được cả.
Bây giờ quyết định số 97 cấm hết. Ai muốn “phản biện” từ nay phải làm đơn nộp cho các “cơ quan có thẩm quyền” cứu xét. Cái ông thủ tướng “yêu sự thật” này muốn bắt mọi người dân chỉ được đi tìm sự thật trong các “cơ quan có thẩm quyền.” Bên ngoài “cơ quan có thẩm quyền” thì không có sự thật nào cả! Có khác gì bịt mồm bịt miệng cả nước, không cho ai nói hay không? Cho nên, đọc qua nội dung cái quyết định số 97, ai cũng phải bật cười. Chỉ có ông Nguyễn Tấn Dũng chắc không cười, cho nên ông ta mới ký!
Nhưng một cái quyết định như vầy nó sẽ gây ra những hậu quả lớn, rất lớn, không thể lường trước được.
Ví dụ bây giờ ông bí thư xã ra lệnh xung công ruộng đất của bà con để cho Hàn Quốc làm sân cù, cho các đồng chí lớn và các nhà tư bản đỏ tập chơi golf với người ngoại quốc. Nếu các nông dân muốn góp ý kiến phản đối thì sao? Theo quyết định số 97, bà con được tự do phản biện, nhưng chỉ được phản biện với “cơ quan có thẩm quyền” mà thôi. Các nhà khoa học công nghệ cũng vậy. Hãy đi tìm những “cơ quan có thẩm quyền” mà phản biện. Và cái “cơ quan có thẩm quyền” ở đây chính là ông bí thư! Trong một bài trước, chúng tôi kể chuyện các công nhân ở tỉnh Cát Lâm bên Trung Quốc đã giết chết một giám đốc xí nghiệp. Con người ta ai cũng muốn làm ăn sinh sống bình thường, không ai muốn giết người cả. Cùng quẫn lắm mới đi phạm tội giết người. Cùng quẫn, là vì nói không được, vì không được nói. Cả một xã hội bị bịt mồm, bịt miệng, báo chí không có tự do, Quốc Hội là Quốc Hội gật, đi tới đâu cũng phủ bênh phủ, huyện bênh huyện. Những nỗi phẫn uất không biết “phản biện” vào đâu, tích tụ lại bao nhiêu năm làm sao giải tỏa được? Phẫn uất quá, những con người hiền lương bỗng nhiên trở thành một bọn sát nhân. Ông Nguyễn Tấn Dũng nên suy nghĩ về hiện tượng đó mà rút lại cái quyết định bịt mồm bịt miệng này đi.
Ngô Nhân Dụng
Hôm qua có một bản tin đưa ra trên mạng lưới, đọc qua thấy là một tin đùa cợt. Bản tin nói rằng ông bộ trưởng Bộ Văn Phòng Chính Phủ gửi một cái thông báo “nội bộ” về “tin đồn 150 triệu đô la” dính đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Ðọc xong thì thấy đây chắc là anh chị em nào muốn đùa chơi. Vì theo lời lẽ trong thông báo nội bộ này, một là, hai là... cho tới năm là, bao nhiêu điều biện hộ cho ông Nguyễn Tấn Dũng, không có một chỗ nào xác định rằng “Ông Nguyễn Tấn Dũng không nhận 150 triệu đô la nào để cho khai thác bô xít ở Việt Nam cả.”
Người viết bản tin đùa cợt trên cốt ý nhắc nhở bà con đến cái tin đồn ông Dũng và vụ 150 triệu đô la mà thôi. Nhiều người đem cái tin trên chuyển đi khắp nơi cho bạn bè, lối xóm đọc, cho thấy người ta tin rằng đây là tin có thật. Hoặc ít nhất, họ tin rằng vụ 150 triệu là có thật! Nếu bây giờ các ông trong nhà nước Nguyễn Tấn Dũng mắc bẫy, viết một bản thông báo mới để phủ nhận tin đồn trên, thì mới thật là khôi hài. Thí dụ, ông bộ trưởng văn phòng chính phủ có thể viết rằng rằng trong mấy ngày qua ông không hề viết bản một “thông báo nội bộ” nào với nội dung bác bỏ tin đồn ông Nguyễn Tấn Dũng được hối lộ 150 triệu đô la cả. Do đó, ông xác nhận các tin đồn mới đưa ra nói rằng ông đã ra thông cáo phủ nhận tin đồn 150 triệu đô la là hoàn toàn bịa đặt của những kẻ xấu! Liệu chuyện khôi hài này có thể xẩy ra được không? Có thể lắm. Chính quyền Nguyễn Tấn Dũng có khả năng làm nhiều chuyện còn buồn cười hơn nữa, nhiều chuyện có thể gọi là “cực kỳ hài hước!”
Thí dụ, khi người ta hỏi ông yêu thích cái gì nhất, thì thay vì nói như người bình thường rằng mình yêu vợ, yêu con, yêu đảng, yêu nước, vân vân, ông Nguyễn Tấn Dũng lại tuyên bố rất hùng hổ rằng ông chỉ yêu có “sự thật” thôi! Ngầm hiểu rằng ông yêu cái gọi là “sự thật” hơn cả yêu vợ, yêu con, yêu tổ tiên, yêu đảng, vân vân.
Nhưng sau khi nói xong câu đó, Nguyễn Tấn Dũng lập tức ra lệnh bắt mấy anh nhà báo đưa ra tòa! Mấy ông ký giả nghe lời ông thủ tướng hăm hở đi tìm sự thật trong những vụ tham nhũng tầy trời, đùng một cái bị tóm, ngẩn người ra không biết tại sao!
Tiếp theo, một quan lớn làm việc thông tin trong chính quyền ra lệnh báo chí phải đi đúng lề bên phải, không được đi qua bên trái. Lúc đó mới hiểu có những “sự thật” ở cả hai bên đường nhưng đảng và nhà nước chỉ cho phép ngó vô những “sự thật lề bên phải” mà thôi! Nhưng trên đường có người đi ngược, người đi xuôi, bố ai biết lề đường bên nào mới thật là lề bên phải? Cách tốt nhất là nhắm mắt không nhìn, không nghe, không nói một “sự thật” nào nữa! Cái óc hài hước của ông Nguyễn Tấn Dũng đã phát triển lên hàng “cao cấp” khi ông ký một cái quyết định số 97, áp dụng kể từ ngày 15 Tháng Chín, 2009, tức là tuần sau. Nội dung quyết định này nhằm lập hàng rào cản ngăn cấm không cho người dân tự do “phản biện.” Ðặc biệt là những người trong các tổ chức khoa học và công nghệ, họ không được nhân danh tổ chức của mình mà công bố các ý kiến “phản biện” đối với những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước Cộng Sản. Vậy người dân Việt Nam nghe các đường lối, chính sách của đảng rồi muốn “phản biện” thì họ phải làm gì, cho đúng khẩu hiệu “Ðảng lắng nghe Dân”? Theo quyết định số 97 thì ai muốn “phản biện” cái gì thì hãy đem các ý kiến đó nộp cho các cơ quan nhà nước! Ðọc bản tin trên phải bật buồn cười. Tuy nhiên, đây không phải là một bản tin đùa cợt như câu chuyện 150 triệu đô la. Vì tin tức này được đăng trên tạp chí Pháp Luật xuất bản ở Sài Gòn, với những bài phỏng vấn và ý kiến bình luận kèm theo. Tức là cái quyết định số 97 của ông Nguyễn Tấn Dũng là có thật. Và nội dung của quyết định này đúng như báo Pháp Luật đã đưa ra, là có thật.
Một điểm hài hước đầu tiên là cách dùng hai chữ “phản biện.” Ðó là hai chữ gốc cũng từ Trung Quốc đưa qua, mặc dù không dính dáng gì tới chuyện khai thác Bô xít cả. Hai chữ này có nghĩa rất rộng, cho nên cũng trở thành trừu tượng. Thế nào là phản biện các đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước? Theo lối bình dân thì ta nói là “góp ý kiến với,” hoặc mạnh hơn, nói là “phản đối,” hoặc là “bắt bẻ,” hay “phản bác,” vân vân. Một người góp ý kiến với các đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trong đó hoàn toàn ủng hộ nhưng chỉ có một điều coi là sai, cũng là “phản biện.” Tại sao phải dùng một từ trừu tượng, có nghĩa rất rộng như vậy, khi muốn ký một cái quyết định ra lệnh dân chúng phải “phản biện đúng lề đường bên phải?” Không phải vì các ông nhà nước thích chữ Hán, không phải họ tin tưởng rằng “Chữ Hán còn thì người Hán còn.” Nhưng dùng những chữ Hán với nghĩa rộng rãi để viết một quyết định thì sau này các ông dễ xoay xở, lúc nào muốn gọi cái gì là “phản biện,” theo luật phải cấm, hay là không phải “phản biện,” không bị cấm, cũng được hết! Xưa nay ở cái nước “Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa” này nhà nước vốn đã có quyền cấm gì thì cấm, cho gì thì cho, phải bầy đặt rắc rối như vậy làm gì không biết!
Ví thử bây giờ chúng ta dịch hai chữ “phản biện” là “đóng góp ý kiến,” thì tính hài hước của cái quyết định 97 mà Nguyễn Tấn Dũng mới ký càng rõ rệt hơn.
Cái ông thủ tướng tự xưng mình là người yêu sự thật ra lệnh cho dân rằng ai muốn “góp ý kiến với những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước” thì phải đưa ý kiến của họ cho các “cơ quan có thẩm quyền” mà thôi.
Như vậy thì giữa hai thằng dân đi ngoài đường, không ai được “phản biện” với nhau bất cứ điều gì về những đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước cả! Thí dụ có một thằng dân nghe báo nghe đài loan tin một công ty Trung Quốc đang đưa hàng ngàn công nhân người Trung Quốc vào nước ta khai thác bô xít, và ông thủ tướng tuyên bố chính sách bô xít là đường lối, chủ trương lớn của đảng và nhà nước, thằng dân thắc mắc về nhà hỏi vợ: “Bô xít là cái gì, má thằng nhỏ có biết không?” Làm như vậy là vi phạm quyết định số 97! Bởi vì má thằng nhỏ không phải là “cơ quan có thẩm quyền” để nói chuyện bô xít, bô xịt gì hết! Mà không cứ chuyện bô xít, bất cứ cái gì được “đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước” đụng vào đều bị cấm hết! Không được góp ý kiến nào với ai cả, ngoài việc bẩm báo với đảng và nhà nước! Ðó là mục tiêu của quyết định số 97! Nhưng quyết định 97 của Nguyễn Tấn Dũng không nhắm vào những thằng dân bình thường, mà nhắm vào giới trí thức, trong đó có các nhà khoa học và kỹ thuật gia ở trong nước! Cho nên trong quyết định có cả những đoạn dài nói riêng về những người này. Gần đây đã có phong trào bàn tán về việc khai thác bô xít. Hàng vạn người đã góp ý kiến với nhau, đã thảo luận công khai trên mạng lưới. Trong đó có những nhà văn, nhà nghiên cứu, các khoa học gia, và cả những cựu tướng lãnh. Lại có một phong trào bàn tán về chủ quyền đất nước ở biển Ðông. Các ông hòa thượng, các ngài linh mục, giám mục, các sử gia cũng đem ra bàn tán và bầy tỏ ý kiến công khai. Những hoạt động đó đều có thể gọi là “phản biện” được cả.
Bây giờ quyết định số 97 cấm hết. Ai muốn “phản biện” từ nay phải làm đơn nộp cho các “cơ quan có thẩm quyền” cứu xét. Cái ông thủ tướng “yêu sự thật” này muốn bắt mọi người dân chỉ được đi tìm sự thật trong các “cơ quan có thẩm quyền.” Bên ngoài “cơ quan có thẩm quyền” thì không có sự thật nào cả! Có khác gì bịt mồm bịt miệng cả nước, không cho ai nói hay không? Cho nên, đọc qua nội dung cái quyết định số 97, ai cũng phải bật cười. Chỉ có ông Nguyễn Tấn Dũng chắc không cười, cho nên ông ta mới ký!
Nhưng một cái quyết định như vầy nó sẽ gây ra những hậu quả lớn, rất lớn, không thể lường trước được.
Ví dụ bây giờ ông bí thư xã ra lệnh xung công ruộng đất của bà con để cho Hàn Quốc làm sân cù, cho các đồng chí lớn và các nhà tư bản đỏ tập chơi golf với người ngoại quốc. Nếu các nông dân muốn góp ý kiến phản đối thì sao? Theo quyết định số 97, bà con được tự do phản biện, nhưng chỉ được phản biện với “cơ quan có thẩm quyền” mà thôi. Các nhà khoa học công nghệ cũng vậy. Hãy đi tìm những “cơ quan có thẩm quyền” mà phản biện. Và cái “cơ quan có thẩm quyền” ở đây chính là ông bí thư! Trong một bài trước, chúng tôi kể chuyện các công nhân ở tỉnh Cát Lâm bên Trung Quốc đã giết chết một giám đốc xí nghiệp. Con người ta ai cũng muốn làm ăn sinh sống bình thường, không ai muốn giết người cả. Cùng quẫn lắm mới đi phạm tội giết người. Cùng quẫn, là vì nói không được, vì không được nói. Cả một xã hội bị bịt mồm, bịt miệng, báo chí không có tự do, Quốc Hội là Quốc Hội gật, đi tới đâu cũng phủ bênh phủ, huyện bênh huyện. Những nỗi phẫn uất không biết “phản biện” vào đâu, tích tụ lại bao nhiêu năm làm sao giải tỏa được? Phẫn uất quá, những con người hiền lương bỗng nhiên trở thành một bọn sát nhân. Ông Nguyễn Tấn Dũng nên suy nghĩ về hiện tượng đó mà rút lại cái quyết định bịt mồm bịt miệng này đi.
lundi 10 août 2009
Vòng đời luẩn quẩn
Diệu Tiên
--------------------------------------------------------------------------------
Cuộc đời là một vòng luẩn quẩn. Luật “luân hồi nhân quả” của nhà Phật, nghe thì cao vời vợi nhưng nhiều khi “quả báo nhãn tiền” cũng chẳng bao xa.
Thầy Thích Nhất Hạnh sinh ra ở miền Trung và lớn lên bằng cơm gạo của miền Nam Cộng Hòa. Trong trửong thành, thầy được chế độ Cộng Hòa ưu đãi nhiều hơn ai khác. Ở tuổi 30, trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa với thầy đang trèo đèo, lội suối, vào sinh ra tử nơi địa đầu chiến tuyến, thì thày ung dung tự tại trau dồi kiến thức ở Đai Học Văn Khoa. Khi tốt nghiệp, thầy , được học bổng qua Mỹ du học tại một trường danh tiếng. Trong thời chiến, đi du học bên Hoa Kỳ không phải là chuyện dễ. Có lẽ, có một bàn tay nào đó đã nâng đỡ cho thày?
Về nước năm 1964, dạy ở Đại Học Vạn Hạnh một thời gian, để rồi lại xuất ngoại vào năm 1966, Lần này, chuyến Mỹ du của thày có mục đích để phổ biến những tư tưởng phản chiến. trong dư luận quốc tế. Với bộ áo của nhà tu hành, với trình độ của một sinh viên tốt nghiệp Đại Học Princeton, thày mau chóng tạo được uy tín với người ngoại quốc. Thày đi nói chuyện khắp nơi, lớn tiếng kết tội VNCH là hiếu chiến. Thầy nói: “Tôi ra đi để nói rõ là dân VN không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết với nhau để đi tới một giải pháp hòa bình, và các cường quốc trên thế giới đừng dùng VN làm một chỗ để tranh dành ảnh hưởng nữa, đừng xử dụng ý thức hệ cũng như bom đạn trên đất nước nhỏ bé này…”
Ngày 2/6/66, thày tố cáo trước Thượng Viện Hoa Kỳ là Mỹ và VNCH: nguyên nhân gây ra thảm họa chiến tranh tại VN, đã bị nhân dân trong nước hết sức bất mãn và chống đối mạnh mẽ. Tội nghiệp cho chính thể VNCH, đã đặt biết bao kỳ vọng vào người “con yêu của đất nước” gửi đi du học. Người con yêu này, thay vì đem hết kiến thức thu nhận được, trở về phục vụ cho đất nước, cho đồng bào thì lại “gậy ông đập lưng ông”, dùng dao “đâm sau lưng chiến sĩ.” Lẽ dĩ nhiên, chính phủ VNCH không thể “nuôi ong tay áo”, “nuôi khỉ dòm nhà” được, nên đành phải cấm cửa đứa con “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” này trở về nơi quê cha đất tổ.
Không biết thầy lấy danh nghĩa gì mà phát biểu thay cho dân VN. Dân miền Nam khao khát hòa bình, nhưng phải là hòa bình đem lại độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc, chứ không phải là loại hoà bình dung túng cho chế độ VC độc tài, thối nát, tay sai ngoại bang.
Sau khi hòa bình đã vãn hồi trên đất nước thày NH không trở về VN. Thày ở lại Pháp xây dựng sự nghiệp, đồng thời cũng tiếp tục trải tư tưởng thiên cộng trong các tác phẩm của thày “Hoa Sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật Giáo” lên án chính phủ VNCH và Hoa Kỳ đàn áp Phật Giáo, gây cảnh tang tóc cho nhân dân miền Nam, và đề cao chính nghĩa cũng như lòng yêu nước của MTGPMN. Thày cũng không quên nhấn mạnh: “Trong đầu óc của người VN nói chung, HCM là vị anh hùng dân tôc lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp.”
Thày TNH không trở về VN, thì tháng 1/2006, nhà nước gừi TT Thích Đức Nghi sang Làng Mai tu tập. Thày Thích Đức Nghi nhờ cư sử khôn khéo, biết làm vừa lòng sư phụ nên đã trở thành đệ tử tâm đắc của thày TNH. TT Thích Đức Nghi được giới thiệu sang thiền viện Lộc Uyển bên Hoa Kỳ để quyên tiền về xây dựng Thiền Viện Bát Nhã ở Lâm Đồng.
Theo lời mời của chính quyền Hà Nôi, ngày 1/12/05, TS TNH đem 100 tăng sinh Làng Mai về VN. TS được đón tiếp trọng thể với một đội ngũ tăng ni đông đảo, có tán vàng che đầu, có hoa thơm rắc lối đi. TT Thích Đức Nghi ngỏ ý muốn cúng dường tu viện Bát Nhã cho TS TNH để làm nơi cho các tăng sinh tu tập.
Trong thời gian 3 tháng lưu lại VN, TS TNH đi thuyết pháp nhiều nơi và tổ chức trai đàn, cầu siêu cho các vong linh đã nằm xuống trong thời kỳ chiến tranh. TS cũng được chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết tiếp kiến tại Phủ Chủ Tịch vào tháng 5/2007.
Ngày 10/29/08, trưởng ban Tôn Giáo chính phủ tố cáo Tăng ni Làng Mai vi phạm Luật pháp VN và ít ngày sau đó, công an Lâm Đồng cưỡng bách trục xuất 400 đệ tử tu học Pháp môn Làng Mai ra khỏi Thiền viện Bát Nhã.
Có lẽ để xoa dịu dư luận, một phiên họp Phật giáo bất thường được tổ chức tại Saigon, không có mặt của đại diện Làng Mai, đã đưa quyết định mới: mọi người có thể tiếp tục tu học, ai chưa có đủ giấy tờ, cần bổ túc, ai quậy phá, sẽ bị xử lý. Về tài sản, thì 2 bên (Làng Mai và Bát Nhã) có thể tự giải quyết, hay nhờ pháp luật).
Ngày 27, 28, 29 tháng 6 năm 2009, 200 thanh niên thuộc xã hội đen tới Thiền Viện Bát Nhã đâp phá đồ đạc, vứt bỏ đồ ăn, cúp điện nước, khóa hết cửa ra vào. Mọi sự hỗ trợ bên ngoài đều vô vọng vì con đường độc đạo từ Bảo Lộc vào Bát Nhã đều có đám thanh niên tụ tập để kiểm tra.
Tin tức chính thức từ Bát Nhã Tu Viện gửi đi lên mạng toàn cầu kêu cứu. TT Thích Đức Nghi cũng lên tiếng yêu cầu mọi tăng ni và tăng sinh dời khỏi Tu viện Bát Nhã
Chắc TS TNH cũng biết rõ là ai đã làm ra những chuyện này?. Những đê tử của thầy có nhiều người lớn tuổi bán nhà bán cửa ở Mỹ để đi về dưỡng già theo lời đường mất của thầy bây giờ không biết làm sao. Ra ngoại quốc trở lại thì nhà bán rồi, còn chỗ nào khác ngoài cách vào “nhà già” sống? Ở trong nước thì tá túc vào chỗ nào? Còn riêng cá nhân thầy tuy có bị VC và sư Thích Đức Nghi lât lọng làm cho hư bột hư đường mọi sự thì cũng đừng buồn. Bởi vì sự việc VC đối xử với thày hôm nay cũng giống như những gì thày đã đối xử với VNCH trước kia. Là người có đọc sách Phật, chắc thầy cũng nhìn thấy “Luật nhân quả” và “quả báo nhãn tiền”. Còn nếu thày chưa nhìn rỏ thì: Nam mô a di đà Phật, xin ngài khai thông huệ nhãn cho thầy.
Diệu Tiên
07/2009
* Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?op...ndoc&Itemid=56
--------------------------------------------------------------------------------
Cuộc đời là một vòng luẩn quẩn. Luật “luân hồi nhân quả” của nhà Phật, nghe thì cao vời vợi nhưng nhiều khi “quả báo nhãn tiền” cũng chẳng bao xa.
Thầy Thích Nhất Hạnh sinh ra ở miền Trung và lớn lên bằng cơm gạo của miền Nam Cộng Hòa. Trong trửong thành, thầy được chế độ Cộng Hòa ưu đãi nhiều hơn ai khác. Ở tuổi 30, trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa với thầy đang trèo đèo, lội suối, vào sinh ra tử nơi địa đầu chiến tuyến, thì thày ung dung tự tại trau dồi kiến thức ở Đai Học Văn Khoa. Khi tốt nghiệp, thầy , được học bổng qua Mỹ du học tại một trường danh tiếng. Trong thời chiến, đi du học bên Hoa Kỳ không phải là chuyện dễ. Có lẽ, có một bàn tay nào đó đã nâng đỡ cho thày?
Về nước năm 1964, dạy ở Đại Học Vạn Hạnh một thời gian, để rồi lại xuất ngoại vào năm 1966, Lần này, chuyến Mỹ du của thày có mục đích để phổ biến những tư tưởng phản chiến. trong dư luận quốc tế. Với bộ áo của nhà tu hành, với trình độ của một sinh viên tốt nghiệp Đại Học Princeton, thày mau chóng tạo được uy tín với người ngoại quốc. Thày đi nói chuyện khắp nơi, lớn tiếng kết tội VNCH là hiếu chiến. Thầy nói: “Tôi ra đi để nói rõ là dân VN không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết với nhau để đi tới một giải pháp hòa bình, và các cường quốc trên thế giới đừng dùng VN làm một chỗ để tranh dành ảnh hưởng nữa, đừng xử dụng ý thức hệ cũng như bom đạn trên đất nước nhỏ bé này…”
Ngày 2/6/66, thày tố cáo trước Thượng Viện Hoa Kỳ là Mỹ và VNCH: nguyên nhân gây ra thảm họa chiến tranh tại VN, đã bị nhân dân trong nước hết sức bất mãn và chống đối mạnh mẽ. Tội nghiệp cho chính thể VNCH, đã đặt biết bao kỳ vọng vào người “con yêu của đất nước” gửi đi du học. Người con yêu này, thay vì đem hết kiến thức thu nhận được, trở về phục vụ cho đất nước, cho đồng bào thì lại “gậy ông đập lưng ông”, dùng dao “đâm sau lưng chiến sĩ.” Lẽ dĩ nhiên, chính phủ VNCH không thể “nuôi ong tay áo”, “nuôi khỉ dòm nhà” được, nên đành phải cấm cửa đứa con “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” này trở về nơi quê cha đất tổ.
Không biết thầy lấy danh nghĩa gì mà phát biểu thay cho dân VN. Dân miền Nam khao khát hòa bình, nhưng phải là hòa bình đem lại độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc, chứ không phải là loại hoà bình dung túng cho chế độ VC độc tài, thối nát, tay sai ngoại bang.
Sau khi hòa bình đã vãn hồi trên đất nước thày NH không trở về VN. Thày ở lại Pháp xây dựng sự nghiệp, đồng thời cũng tiếp tục trải tư tưởng thiên cộng trong các tác phẩm của thày “Hoa Sen trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật Giáo” lên án chính phủ VNCH và Hoa Kỳ đàn áp Phật Giáo, gây cảnh tang tóc cho nhân dân miền Nam, và đề cao chính nghĩa cũng như lòng yêu nước của MTGPMN. Thày cũng không quên nhấn mạnh: “Trong đầu óc của người VN nói chung, HCM là vị anh hùng dân tôc lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp.”
Thày TNH không trở về VN, thì tháng 1/2006, nhà nước gừi TT Thích Đức Nghi sang Làng Mai tu tập. Thày Thích Đức Nghi nhờ cư sử khôn khéo, biết làm vừa lòng sư phụ nên đã trở thành đệ tử tâm đắc của thày TNH. TT Thích Đức Nghi được giới thiệu sang thiền viện Lộc Uyển bên Hoa Kỳ để quyên tiền về xây dựng Thiền Viện Bát Nhã ở Lâm Đồng.
Theo lời mời của chính quyền Hà Nôi, ngày 1/12/05, TS TNH đem 100 tăng sinh Làng Mai về VN. TS được đón tiếp trọng thể với một đội ngũ tăng ni đông đảo, có tán vàng che đầu, có hoa thơm rắc lối đi. TT Thích Đức Nghi ngỏ ý muốn cúng dường tu viện Bát Nhã cho TS TNH để làm nơi cho các tăng sinh tu tập.
Trong thời gian 3 tháng lưu lại VN, TS TNH đi thuyết pháp nhiều nơi và tổ chức trai đàn, cầu siêu cho các vong linh đã nằm xuống trong thời kỳ chiến tranh. TS cũng được chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết tiếp kiến tại Phủ Chủ Tịch vào tháng 5/2007.
Ngày 10/29/08, trưởng ban Tôn Giáo chính phủ tố cáo Tăng ni Làng Mai vi phạm Luật pháp VN và ít ngày sau đó, công an Lâm Đồng cưỡng bách trục xuất 400 đệ tử tu học Pháp môn Làng Mai ra khỏi Thiền viện Bát Nhã.
Có lẽ để xoa dịu dư luận, một phiên họp Phật giáo bất thường được tổ chức tại Saigon, không có mặt của đại diện Làng Mai, đã đưa quyết định mới: mọi người có thể tiếp tục tu học, ai chưa có đủ giấy tờ, cần bổ túc, ai quậy phá, sẽ bị xử lý. Về tài sản, thì 2 bên (Làng Mai và Bát Nhã) có thể tự giải quyết, hay nhờ pháp luật).
Ngày 27, 28, 29 tháng 6 năm 2009, 200 thanh niên thuộc xã hội đen tới Thiền Viện Bát Nhã đâp phá đồ đạc, vứt bỏ đồ ăn, cúp điện nước, khóa hết cửa ra vào. Mọi sự hỗ trợ bên ngoài đều vô vọng vì con đường độc đạo từ Bảo Lộc vào Bát Nhã đều có đám thanh niên tụ tập để kiểm tra.
Tin tức chính thức từ Bát Nhã Tu Viện gửi đi lên mạng toàn cầu kêu cứu. TT Thích Đức Nghi cũng lên tiếng yêu cầu mọi tăng ni và tăng sinh dời khỏi Tu viện Bát Nhã
Chắc TS TNH cũng biết rõ là ai đã làm ra những chuyện này?. Những đê tử của thầy có nhiều người lớn tuổi bán nhà bán cửa ở Mỹ để đi về dưỡng già theo lời đường mất của thầy bây giờ không biết làm sao. Ra ngoại quốc trở lại thì nhà bán rồi, còn chỗ nào khác ngoài cách vào “nhà già” sống? Ở trong nước thì tá túc vào chỗ nào? Còn riêng cá nhân thầy tuy có bị VC và sư Thích Đức Nghi lât lọng làm cho hư bột hư đường mọi sự thì cũng đừng buồn. Bởi vì sự việc VC đối xử với thày hôm nay cũng giống như những gì thày đã đối xử với VNCH trước kia. Là người có đọc sách Phật, chắc thầy cũng nhìn thấy “Luật nhân quả” và “quả báo nhãn tiền”. Còn nếu thày chưa nhìn rỏ thì: Nam mô a di đà Phật, xin ngài khai thông huệ nhãn cho thầy.
Diệu Tiên
07/2009
* Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?op...ndoc&Itemid=56
mercredi 5 août 2009
Bát Nhã và Tam Tòa
Tuesday, August 04, 2009
Ngô Nhân Dụng
Hai biến cố liên can đến tôn giáo gần đây, vụ Tu viện Bát Nhã và vụ Nhà thờ Tam Tòa, có những điểm giống nhau và khác nhau, nhưng cả hai cùng do một nguyên nhân, là chế độ độc tài toàn trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ðảng này đã tước đoạt những quyền tự do căn bản của người dân bình thường, và họ có thái độc thù ghét các tôn giáo, cho nên họ đàn áp từ tăng ni Phật tử đến các tín hữu Công Giáo.
Bát Nhã và Tam Tòa cho thấy cảnh những người dân thực hành tín ngưỡng của họ và bị ngăn cản và đàn áp. Trong cả hai vụ, đảng Cộng Sản đều trốn trách nhiệm không dám chính thức ra mặt mà thả cho đám tay sai cấp dưới làm bậy. Trong cả hai trường hợp, công an Cộng Sản đều thuê tay sai đóng vai thường dân làm những hành động côn đồ. Cả hai vụ đang gây tiếng vang trong dư luận quốc tế và đồng bào trong nước đang chú ý theo dõi, cuối cùng đảng Cộng Sản không thể trốn trách nhiệm được nữa. Nhưng cả hai biến cố này cho thấy sức mạnh của tín ngưỡng tâm linh được biểu hiện, khiến mọi người Việt Nam phải xúc động. Họ sẽ nhìn thấy một chế độ trống rỗng trong tư tưởng và lúng túng trong việc làm, đang tiến gần đến ngày tàn tạ.
Những sự kiện xẩy ra ở Bát Nhã và Tam Tòa có những điểm khác nhau. Bát Nhã là một vụ lật lọng, lường đảo của chế độ Cộng Sản theo lệnh của ngoại bang; còn Tam Tòa là một vụ cướp đoạt quyền sở hữu nhằm mục đích cản trở sinh hoạt tôn giáo.
Tu viện Bát Nhã trước sau vẫn thuộc quyền sở hữu của Thượng Tọa Ðức Nghi, một người trong Giáo Hội Phật Giáo được nhà nước Cộng Sản kiểm soát. Ngay cả những khu đất mới mua và các cơ sở mới xây cất tại đó, do các Phật tử Làng Mai ở khắp thế giới cúng trị giá một triệu Mỹ kim, cũng vẫn thuộc quyền sở hữu của vị trụ trì cũ chùa này. Ông sư Ðức Nghi đã sang Làng Mai bên Pháp xin theo học pháp môn mới nhiều lần, và xin hiến cúng Bát Nhã, một trong nhiều ngôi chùa của ông, nhưng Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh đã không nhận mà chỉ hứa gửi các tăng ni về giúp hướng dẫn việc tu tập theo quy củ Làng Mai giúp cho tu viện thêm sinh khí mới.
Sau khi các tăng, ni Làng Mai về Bát Nhã được bốn năm, họ đã quy tụ được gần 400 tăng ni trẻ mới; ngoài ra còn thu hút hàng ngàn Phật tử từ nhiều nơi trong nước về tu tập những cuối tuần. Phương pháp tu học mới thu hút giới trẻ ở Việt Nam và khắp thế giới vì cho họ thấy có cách thực hành đạo Phật vào cuộc sống của chính họ trong thời đại này. Sự có mặt của các giáo thọ Làng Mai giúp các tăng ni mới xuất gia và Phật tử thấy lối sống theo thanh quy trong tự viện và cách thực hành đạo Phật trong đời sống tại gia đem lại an lạc thực sự. Trong Tháng Bẩy 3009, tại chùa Hoằng Pháp ở Hóc Môn, hơn 6,000 Phật tử trẻ tuổi đã tụ họp tĩnh tu, một hoạt động theo phương pháp của Làng Mai, vì hiện nay người ta không được phép đến Bát Nhã tu tập nữa. Hòa Thượng Nhất Hạnh đã thuyết giảng ở chùa này trong hai lần về nước. Pháp môn mới từ Tu Viện Bát Nhã lan ra có thể gây ảnh hưởng rộng lớn, là một lý do khiến chính quyền Cộng Sản lo sợ họ mất khả năng kiểm soát. Nhưng áp lực của Cộng Sản Trung Quốc là nguyên nhân trực tiếp. Cộng Sản Trung Quốc đã bất bình khi Hòa Thượng Nhất Hạnh ủng hộ nhân dân Tây Tạng và còn đề nghị Cộng Sản Việt Nam mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới Việt Nam dự lễ Phật Ðản năm ngoái trong một chương trình được Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Cộng Sản Trung Quốc đã yêu cầu Hà Nội cấm Hòa Thượng Nhất Hạnh về nước dự lễ, nhưng chính quyền Hà Nội không làm theo vì uy tín quốc tế của nhà sư 82 tuổi này quá lớn.
Sau Lễ Vesak năm ngoái, các tăng ni giáo thọ của Làng Mai bắt đầu bị quấy nhiễu, ngăn cản, và sau cùng tất cả đã phải ra khỏi Việt Nam. Ðối với 379 tu sĩ còn lại, Cộng Sản ra lệnh cho Thượng Tọa Ðức Nghi đuổi họ ra khỏi chùa Bát Nhã, dùng luật lệ về hộ khẩu để cấm những tu sĩ trẻ này tiếp tục đường tu học. Ðiều đảng Cộng Sản Việt Nam không ngờ được là hạt giống đạo được gieo vào tâm thức của 400 tăng ni mới ở Bát Nhã đã biến họ thành những con người không sợ hãi và không phản ứng bạo động trước những hành động tàn ác. Nhiều người bị cha mẹ gọi về vì áp lực của công an cũng đã quay trở lại Bát Nhã để sống chết với đồng đạo. Những người trẻ tuổi này, từng sống dưới chế độ Cộng Sản từ bé đến lớn, sau mấy năm tu tập theo đạo Phật đã tự chuyển hóa để tạo được tâm an nhiên tự tại trước mọi khiêu khích, lăng mạ, đe dọa, và đánh đập. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không thể trục xuất những tăng ni trẻ này ra khỏi Việt Nam, mà cũng thể đánh đập mãi những người xuất gia ngồi lặng lẽ niệm Phật trong khi bị cắt điện, cắt nước, bị phong toả cả thức ăn. Ðồng bào trong vùng, cả các tín hữu Công Giáo láng giềng, đã bầy tỏ tình đoàn kết với các tăng ni bị quấy phá và đàn áp, hậu quả của vụ Bát Nhã có thể lan ra rộng mặc dù báo chí trong nước bị cấm loan tin. Người dân Việt Nam sẽ tự hỏi một chế độ, một đảng chính trị và một chính quyền như thế nào mà lại có những hành động kém văn minh đối với những người chỉ chú tâm hành đạo như vậy? Ðó cũng là câu hỏi đặt ra khi chúng ta chứng kiến vụ Tam Tòa.
Ngôi nhà thờ ở Tam Tòa đã dựng lên từ năm 1887, là nhà thờ chính của cả Giáo Phận Vinh. Từ khi ngôi nhà thờ cổ bị máy bay Mỹ phá năm 1968, giáo phận vẫn chưa có một giáo đường chính, mặc dù hiện nay lên tới nửa triệu tín đồ. Lịch sử giáo phận này đã bắt đầu từ năm 1631 khi những giáo dân đầu tiên đã tụ thành một xóm đạo. Từ khi chiến tranh chấm dứt, các giáo dân đã đòi được xây dựng nhà thờ chính tòa tại địa điểm cũ nhưng bị chính quyền Cộng Sản từ chối, lấy cớ muốn giữ ngôi tháp chuông bị phá làm “chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ.” Không thấy chính quyền Cộng Sản trưng ra một bằng cớ nào là khu đất nhà thờ đã bị trưng dụng làm của công. Lối cai trị của đảng Cộng Sản vẫn như vậy, lời nói và mệnh lệnh của cán bộ có thể thay cho pháp luật. Cho nên suốt 40 năm qua các giáo dân Vinh đã không có một nhà thờ xứng đáng với lịch sử sự phát triển của cộng đồng tín hữu. Suốt 34 năm qua kể từ khi hòa bình, giáo dân Vinh đã phải nhịn nhục, vì “trước kia lơ mơ là bị dẹp liền,” đúng như lời của Linh Mục Huỳnh Công Minh, một người đã từng được gọi là “linh mục quốc doanh” ở Sài Gòn. Con sâu xéo lắm cũng quằn, giữa Tháng Bẩy người dân Công Giáo ở Vinh đã tự động kéo đến nền đất nhà thờ cũ dựng lên một ngôi nhà tạm dùng làm nơi thờ phượng. Khu đất đó vẫn thuộc chủ quyền của Giáo Phận Vinh, mới được tái lập từ năm 2006. Các giáo dân dựng ngôi nhà trên khu đất chung của họ. Nhưng chính quyền Cộng Sản đã ra tay đàn áp để cấm cản. Khi quân Trung Quốc cướp chiếm những hoàn đảo thuộc hải phận nước Việt Nam thì Cộng Sản không dám dám phản đối bằng hành động mà lúc nào cũng một mực nhún nhường xin bàn thảo, dù biết cứ nói hão như thế thì chẳng bao giờ đi đến đâu. Nhưng khi người dân dựng lại nhà trên khu đất thuộc quyền sở hữu của giáo phận thì cũng chính quyền Cộng Sản đó lại thẳng tay đánh đập để ngăn cản! Và tại nhà thờ Tam Tòa họ cũng dùng một thủ đoạn giống như ở tu viện Bát Nhã: kéo một đám côn đồ tới chửi bới và hành hung những tín đồ một tôn giáo đang làm bổn phận với tín ngưỡng của họ! Thủ đoạn ném đá giấu tay đó còn được công an Cộng Sản bồi thêm bằng việc bắt giữ giáo dân, đánh các linh mục rồi ném người qua cửa sổ nhà thương. Ðối với những người có tín ngưỡng tâm linh thâm sâu bền chặt, các thủ đoạn đó càng tạo phản ứng ngược lại, người dân càng vững tin hơn. Chỉ nhìn vào cách đảng Cộng Sản sử dụng những phương pháp đê hèn và vô hiệu đó cũng thấy họ đang lâm vào tình trạng bối rối và bế tắc. Ðây là nhóm người lãnh đạo một đảng đang trống rỗng về tư tưởng, các đảng viên mất niềm tin chỉ chờ ngày tan rã, mạnh ai nấy chỉ mong vơ vét cho đầy túi tham.Một dấu hiệu của sự trống rỗng trong đầu óc đảng Cộng Sản là những lời phê bình của một cán bộ đứng đầu Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo của đảng. Ông này lý luận rằng các giáo dân gốc ở Tam Tòa đã di cư vào Nam hết cả, khu đất nhà thờ không thuộc quyền sử dụng của những giáo dân mới, cho nên họ không được dùng nữa. Nói như vậy là không hiểu một giáo hội, một giáo phận là một thực thể pháp lý riêng, không tùy thuộc vào các cá nhân trong đó còn sống hay đã chết, còn ở tại chỗ hoặc đã đi xa. Một cán bộ cao cấp về tôn giáo mà trình độ hiểu biết ấu trĩ như vậy, thật đáng xấu hổ. Ông này còn nói giáo dân Tam Tòa đã “từ bé xé ra to” khi chuyển một “vấn đề dân sự thành vấn đề tôn giáo.” Chính nhận xét này vô tình cho thấy tất cả tội lỗi là do chủ trương, đường lối của đảng Cộng Sản gây ra. Vì phải đặt câu hỏi: Nguyên nhân vì sao mà “một vấn đề dân sự biến thành vấn đề tôn giáo?”
Chính chủ nghĩa Cộng Sản và đảng Cộng Sản đã tạo ra tình trạng đó. Ðảng Cộng Sản, từ thời Lê nin, sau khi cướp chính quyền phải thi hành chính sách toàn trị, tức là kiểm soát tất cả đời sống của dân bị họ cai trị, từ miếng cơm manh áo tới đời sống tinh thần. Trong đó có cả cuộc sống tâm linh. Do đó, họ coi các tôn giáo là thù nghịch, các tu sĩ, giáo hội là những mục tiêu phải trừ khử. Ðảng Cộng Sản không thể chấp nhận cho người dân được hướng về bất cứ một đạo lý, một đức tin nào khác, ngoài chủ nghĩa Cộng Sản; không được tôn kính ai ngoài các lãnh tụ đảng. Chính chủ trương độc tài toàn trị đó đã biến bao nhiêu vấn đề không có tính cách tôn giáo trở thành vấn đề tôn giáo. Ðã chính trị hóa các hoạt động tôn giáo bị ngăn cấm.
Trong vụ Bát Nhã, vấn đề chính là đảng Cộng Sản muốn chiếm độc quyền kiểm soát các Phật tử trong một giáo hội Phật Giáo nhà nước chỉ định. Trên căn bản, đây là vấn đề xâm phạm quyền tự do lập hội. Các tu sĩ bị đuổi lấy cớ thiếu hộ khẩu vì họ không có quyền tự do cư trú. Trong vụ Tam Tòa, căn bản là việc sử dụng đất đai bị nhà nước chiếm độc quyền, thích ai thì cho, không thì cấm. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không đối xử tàn nhẫn riêng với các tăng ni Bát Nhã hoặc giáo dân Tam Tòa. Tất cả mọi người Việt Nam đều bị mất những quyền tự do như vậy. Tất cả mọi người dân Việt Nam đều là nạn nhân của chủ trương độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản. Nhưng khi tín đồ các tôn giáo bị mất tự do thì vấn đề trở thành quyền tự do tín ngưỡng bị xúc phạm. Vì tín đồ các tôn giáo chỉ được tự do hành đạo khi nào tất cả mọi người dân Việt Nam được tự do lập hội, tự do cư trú và tự do sử dụng đất đai hợp pháp do tổ tiên mình để lại. Cho nên không phải các tăng ni ở tu viện Bát Nhã hay các giáo dân Tam Tòa đã chính trị hóa những vụ đàn áp của chính quyền Cộng Sản. Ðảng Cộng Sản đã chính trị hóa tất cả đời sống của người dân Việt vì chủ trương độc tài toàn trị của họ. Ở Bát Nhã, người dân đi tu đã bị đàn áp vì không có quyền tự do hội họp và tự do cư trú. Ở Tam Tòa, các giáo dân bị đàn áp vì không được quyền sử dụng đất đai thuộc quyền của giáo phận.
Các tăng ni Bát Nhã và đồng bào Công Giáo Tam Tòa đang đòi được hưởng những quyền tự do căn bản. Họ có thể mở đầu một phong trào đòi tự do dân chủ cho mọi người Việt Nam.
Hai vụ Bát Nhã và Tam Tòa xẩy ra trong lúc bao nhiêu người Việt khác đang phẫn nộ vì những vụ Hoàng Sa, Bô xít, và tầu đánh cá Việt Nam bị đâm chìm ở biển Ðông. Mọi người dân Việt Nam sẽ hiểu rằng đây không phải là những vấn đề thuần túy tôn giáo, Bát Nhã và Tam Tòa là dấu hiệu của cảnh lúng túng bất lực của một chế độ sắp tan rã. Bà con sẽ thấy rõ người dân sống trong nước ta đã bị tước đoạt những quyền tự do dân chủ căn bản để được sống xứng đáng làm người. Khi mọi người hiểu như vậy, thì chế độ Cộng Sản sẽ phải cáo chung.
Ngô Nhân Dụng
Hai biến cố liên can đến tôn giáo gần đây, vụ Tu viện Bát Nhã và vụ Nhà thờ Tam Tòa, có những điểm giống nhau và khác nhau, nhưng cả hai cùng do một nguyên nhân, là chế độ độc tài toàn trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ðảng này đã tước đoạt những quyền tự do căn bản của người dân bình thường, và họ có thái độc thù ghét các tôn giáo, cho nên họ đàn áp từ tăng ni Phật tử đến các tín hữu Công Giáo.
Bát Nhã và Tam Tòa cho thấy cảnh những người dân thực hành tín ngưỡng của họ và bị ngăn cản và đàn áp. Trong cả hai vụ, đảng Cộng Sản đều trốn trách nhiệm không dám chính thức ra mặt mà thả cho đám tay sai cấp dưới làm bậy. Trong cả hai trường hợp, công an Cộng Sản đều thuê tay sai đóng vai thường dân làm những hành động côn đồ. Cả hai vụ đang gây tiếng vang trong dư luận quốc tế và đồng bào trong nước đang chú ý theo dõi, cuối cùng đảng Cộng Sản không thể trốn trách nhiệm được nữa. Nhưng cả hai biến cố này cho thấy sức mạnh của tín ngưỡng tâm linh được biểu hiện, khiến mọi người Việt Nam phải xúc động. Họ sẽ nhìn thấy một chế độ trống rỗng trong tư tưởng và lúng túng trong việc làm, đang tiến gần đến ngày tàn tạ.
Những sự kiện xẩy ra ở Bát Nhã và Tam Tòa có những điểm khác nhau. Bát Nhã là một vụ lật lọng, lường đảo của chế độ Cộng Sản theo lệnh của ngoại bang; còn Tam Tòa là một vụ cướp đoạt quyền sở hữu nhằm mục đích cản trở sinh hoạt tôn giáo.
Tu viện Bát Nhã trước sau vẫn thuộc quyền sở hữu của Thượng Tọa Ðức Nghi, một người trong Giáo Hội Phật Giáo được nhà nước Cộng Sản kiểm soát. Ngay cả những khu đất mới mua và các cơ sở mới xây cất tại đó, do các Phật tử Làng Mai ở khắp thế giới cúng trị giá một triệu Mỹ kim, cũng vẫn thuộc quyền sở hữu của vị trụ trì cũ chùa này. Ông sư Ðức Nghi đã sang Làng Mai bên Pháp xin theo học pháp môn mới nhiều lần, và xin hiến cúng Bát Nhã, một trong nhiều ngôi chùa của ông, nhưng Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh đã không nhận mà chỉ hứa gửi các tăng ni về giúp hướng dẫn việc tu tập theo quy củ Làng Mai giúp cho tu viện thêm sinh khí mới.
Sau khi các tăng, ni Làng Mai về Bát Nhã được bốn năm, họ đã quy tụ được gần 400 tăng ni trẻ mới; ngoài ra còn thu hút hàng ngàn Phật tử từ nhiều nơi trong nước về tu tập những cuối tuần. Phương pháp tu học mới thu hút giới trẻ ở Việt Nam và khắp thế giới vì cho họ thấy có cách thực hành đạo Phật vào cuộc sống của chính họ trong thời đại này. Sự có mặt của các giáo thọ Làng Mai giúp các tăng ni mới xuất gia và Phật tử thấy lối sống theo thanh quy trong tự viện và cách thực hành đạo Phật trong đời sống tại gia đem lại an lạc thực sự. Trong Tháng Bẩy 3009, tại chùa Hoằng Pháp ở Hóc Môn, hơn 6,000 Phật tử trẻ tuổi đã tụ họp tĩnh tu, một hoạt động theo phương pháp của Làng Mai, vì hiện nay người ta không được phép đến Bát Nhã tu tập nữa. Hòa Thượng Nhất Hạnh đã thuyết giảng ở chùa này trong hai lần về nước. Pháp môn mới từ Tu Viện Bát Nhã lan ra có thể gây ảnh hưởng rộng lớn, là một lý do khiến chính quyền Cộng Sản lo sợ họ mất khả năng kiểm soát. Nhưng áp lực của Cộng Sản Trung Quốc là nguyên nhân trực tiếp. Cộng Sản Trung Quốc đã bất bình khi Hòa Thượng Nhất Hạnh ủng hộ nhân dân Tây Tạng và còn đề nghị Cộng Sản Việt Nam mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma tới Việt Nam dự lễ Phật Ðản năm ngoái trong một chương trình được Liên Hiệp Quốc bảo trợ. Cộng Sản Trung Quốc đã yêu cầu Hà Nội cấm Hòa Thượng Nhất Hạnh về nước dự lễ, nhưng chính quyền Hà Nội không làm theo vì uy tín quốc tế của nhà sư 82 tuổi này quá lớn.
Sau Lễ Vesak năm ngoái, các tăng ni giáo thọ của Làng Mai bắt đầu bị quấy nhiễu, ngăn cản, và sau cùng tất cả đã phải ra khỏi Việt Nam. Ðối với 379 tu sĩ còn lại, Cộng Sản ra lệnh cho Thượng Tọa Ðức Nghi đuổi họ ra khỏi chùa Bát Nhã, dùng luật lệ về hộ khẩu để cấm những tu sĩ trẻ này tiếp tục đường tu học. Ðiều đảng Cộng Sản Việt Nam không ngờ được là hạt giống đạo được gieo vào tâm thức của 400 tăng ni mới ở Bát Nhã đã biến họ thành những con người không sợ hãi và không phản ứng bạo động trước những hành động tàn ác. Nhiều người bị cha mẹ gọi về vì áp lực của công an cũng đã quay trở lại Bát Nhã để sống chết với đồng đạo. Những người trẻ tuổi này, từng sống dưới chế độ Cộng Sản từ bé đến lớn, sau mấy năm tu tập theo đạo Phật đã tự chuyển hóa để tạo được tâm an nhiên tự tại trước mọi khiêu khích, lăng mạ, đe dọa, và đánh đập. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không thể trục xuất những tăng ni trẻ này ra khỏi Việt Nam, mà cũng thể đánh đập mãi những người xuất gia ngồi lặng lẽ niệm Phật trong khi bị cắt điện, cắt nước, bị phong toả cả thức ăn. Ðồng bào trong vùng, cả các tín hữu Công Giáo láng giềng, đã bầy tỏ tình đoàn kết với các tăng ni bị quấy phá và đàn áp, hậu quả của vụ Bát Nhã có thể lan ra rộng mặc dù báo chí trong nước bị cấm loan tin. Người dân Việt Nam sẽ tự hỏi một chế độ, một đảng chính trị và một chính quyền như thế nào mà lại có những hành động kém văn minh đối với những người chỉ chú tâm hành đạo như vậy? Ðó cũng là câu hỏi đặt ra khi chúng ta chứng kiến vụ Tam Tòa.
Ngôi nhà thờ ở Tam Tòa đã dựng lên từ năm 1887, là nhà thờ chính của cả Giáo Phận Vinh. Từ khi ngôi nhà thờ cổ bị máy bay Mỹ phá năm 1968, giáo phận vẫn chưa có một giáo đường chính, mặc dù hiện nay lên tới nửa triệu tín đồ. Lịch sử giáo phận này đã bắt đầu từ năm 1631 khi những giáo dân đầu tiên đã tụ thành một xóm đạo. Từ khi chiến tranh chấm dứt, các giáo dân đã đòi được xây dựng nhà thờ chính tòa tại địa điểm cũ nhưng bị chính quyền Cộng Sản từ chối, lấy cớ muốn giữ ngôi tháp chuông bị phá làm “chứng tích tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ.” Không thấy chính quyền Cộng Sản trưng ra một bằng cớ nào là khu đất nhà thờ đã bị trưng dụng làm của công. Lối cai trị của đảng Cộng Sản vẫn như vậy, lời nói và mệnh lệnh của cán bộ có thể thay cho pháp luật. Cho nên suốt 40 năm qua các giáo dân Vinh đã không có một nhà thờ xứng đáng với lịch sử sự phát triển của cộng đồng tín hữu. Suốt 34 năm qua kể từ khi hòa bình, giáo dân Vinh đã phải nhịn nhục, vì “trước kia lơ mơ là bị dẹp liền,” đúng như lời của Linh Mục Huỳnh Công Minh, một người đã từng được gọi là “linh mục quốc doanh” ở Sài Gòn. Con sâu xéo lắm cũng quằn, giữa Tháng Bẩy người dân Công Giáo ở Vinh đã tự động kéo đến nền đất nhà thờ cũ dựng lên một ngôi nhà tạm dùng làm nơi thờ phượng. Khu đất đó vẫn thuộc chủ quyền của Giáo Phận Vinh, mới được tái lập từ năm 2006. Các giáo dân dựng ngôi nhà trên khu đất chung của họ. Nhưng chính quyền Cộng Sản đã ra tay đàn áp để cấm cản. Khi quân Trung Quốc cướp chiếm những hoàn đảo thuộc hải phận nước Việt Nam thì Cộng Sản không dám dám phản đối bằng hành động mà lúc nào cũng một mực nhún nhường xin bàn thảo, dù biết cứ nói hão như thế thì chẳng bao giờ đi đến đâu. Nhưng khi người dân dựng lại nhà trên khu đất thuộc quyền sở hữu của giáo phận thì cũng chính quyền Cộng Sản đó lại thẳng tay đánh đập để ngăn cản! Và tại nhà thờ Tam Tòa họ cũng dùng một thủ đoạn giống như ở tu viện Bát Nhã: kéo một đám côn đồ tới chửi bới và hành hung những tín đồ một tôn giáo đang làm bổn phận với tín ngưỡng của họ! Thủ đoạn ném đá giấu tay đó còn được công an Cộng Sản bồi thêm bằng việc bắt giữ giáo dân, đánh các linh mục rồi ném người qua cửa sổ nhà thương. Ðối với những người có tín ngưỡng tâm linh thâm sâu bền chặt, các thủ đoạn đó càng tạo phản ứng ngược lại, người dân càng vững tin hơn. Chỉ nhìn vào cách đảng Cộng Sản sử dụng những phương pháp đê hèn và vô hiệu đó cũng thấy họ đang lâm vào tình trạng bối rối và bế tắc. Ðây là nhóm người lãnh đạo một đảng đang trống rỗng về tư tưởng, các đảng viên mất niềm tin chỉ chờ ngày tan rã, mạnh ai nấy chỉ mong vơ vét cho đầy túi tham.Một dấu hiệu của sự trống rỗng trong đầu óc đảng Cộng Sản là những lời phê bình của một cán bộ đứng đầu Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo của đảng. Ông này lý luận rằng các giáo dân gốc ở Tam Tòa đã di cư vào Nam hết cả, khu đất nhà thờ không thuộc quyền sử dụng của những giáo dân mới, cho nên họ không được dùng nữa. Nói như vậy là không hiểu một giáo hội, một giáo phận là một thực thể pháp lý riêng, không tùy thuộc vào các cá nhân trong đó còn sống hay đã chết, còn ở tại chỗ hoặc đã đi xa. Một cán bộ cao cấp về tôn giáo mà trình độ hiểu biết ấu trĩ như vậy, thật đáng xấu hổ. Ông này còn nói giáo dân Tam Tòa đã “từ bé xé ra to” khi chuyển một “vấn đề dân sự thành vấn đề tôn giáo.” Chính nhận xét này vô tình cho thấy tất cả tội lỗi là do chủ trương, đường lối của đảng Cộng Sản gây ra. Vì phải đặt câu hỏi: Nguyên nhân vì sao mà “một vấn đề dân sự biến thành vấn đề tôn giáo?”
Chính chủ nghĩa Cộng Sản và đảng Cộng Sản đã tạo ra tình trạng đó. Ðảng Cộng Sản, từ thời Lê nin, sau khi cướp chính quyền phải thi hành chính sách toàn trị, tức là kiểm soát tất cả đời sống của dân bị họ cai trị, từ miếng cơm manh áo tới đời sống tinh thần. Trong đó có cả cuộc sống tâm linh. Do đó, họ coi các tôn giáo là thù nghịch, các tu sĩ, giáo hội là những mục tiêu phải trừ khử. Ðảng Cộng Sản không thể chấp nhận cho người dân được hướng về bất cứ một đạo lý, một đức tin nào khác, ngoài chủ nghĩa Cộng Sản; không được tôn kính ai ngoài các lãnh tụ đảng. Chính chủ trương độc tài toàn trị đó đã biến bao nhiêu vấn đề không có tính cách tôn giáo trở thành vấn đề tôn giáo. Ðã chính trị hóa các hoạt động tôn giáo bị ngăn cấm.
Trong vụ Bát Nhã, vấn đề chính là đảng Cộng Sản muốn chiếm độc quyền kiểm soát các Phật tử trong một giáo hội Phật Giáo nhà nước chỉ định. Trên căn bản, đây là vấn đề xâm phạm quyền tự do lập hội. Các tu sĩ bị đuổi lấy cớ thiếu hộ khẩu vì họ không có quyền tự do cư trú. Trong vụ Tam Tòa, căn bản là việc sử dụng đất đai bị nhà nước chiếm độc quyền, thích ai thì cho, không thì cấm. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không đối xử tàn nhẫn riêng với các tăng ni Bát Nhã hoặc giáo dân Tam Tòa. Tất cả mọi người Việt Nam đều bị mất những quyền tự do như vậy. Tất cả mọi người dân Việt Nam đều là nạn nhân của chủ trương độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản. Nhưng khi tín đồ các tôn giáo bị mất tự do thì vấn đề trở thành quyền tự do tín ngưỡng bị xúc phạm. Vì tín đồ các tôn giáo chỉ được tự do hành đạo khi nào tất cả mọi người dân Việt Nam được tự do lập hội, tự do cư trú và tự do sử dụng đất đai hợp pháp do tổ tiên mình để lại. Cho nên không phải các tăng ni ở tu viện Bát Nhã hay các giáo dân Tam Tòa đã chính trị hóa những vụ đàn áp của chính quyền Cộng Sản. Ðảng Cộng Sản đã chính trị hóa tất cả đời sống của người dân Việt vì chủ trương độc tài toàn trị của họ. Ở Bát Nhã, người dân đi tu đã bị đàn áp vì không có quyền tự do hội họp và tự do cư trú. Ở Tam Tòa, các giáo dân bị đàn áp vì không được quyền sử dụng đất đai thuộc quyền của giáo phận.
Các tăng ni Bát Nhã và đồng bào Công Giáo Tam Tòa đang đòi được hưởng những quyền tự do căn bản. Họ có thể mở đầu một phong trào đòi tự do dân chủ cho mọi người Việt Nam.
Hai vụ Bát Nhã và Tam Tòa xẩy ra trong lúc bao nhiêu người Việt khác đang phẫn nộ vì những vụ Hoàng Sa, Bô xít, và tầu đánh cá Việt Nam bị đâm chìm ở biển Ðông. Mọi người dân Việt Nam sẽ hiểu rằng đây không phải là những vấn đề thuần túy tôn giáo, Bát Nhã và Tam Tòa là dấu hiệu của cảnh lúng túng bất lực của một chế độ sắp tan rã. Bà con sẽ thấy rõ người dân sống trong nước ta đã bị tước đoạt những quyền tự do dân chủ căn bản để được sống xứng đáng làm người. Khi mọi người hiểu như vậy, thì chế độ Cộng Sản sẽ phải cáo chung.
lundi 3 août 2009
Kích động hận thù gây xung đột tôn giáo để tìm kiếm sự tồn tại - CSVN đi sâu vào con đường tự hủy
VietCatholic News (03 Aug 2009 08:01)
Lịch sử loài người đã từng ghi nhận nhiều cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới quốc gia, chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo… Trong các cuộc chiến tranh đó, chiến tranh do bạo động tôn giáo là có vẻ tàn khốc và khó giải quyết nhất… Chính vì thế trong xã hội văn minh ngày nay, không một thế lực chính trị nào dám khơi mào một cuộc chiến mang mầu sắc tôn giáo. Bạo động mang mầu sắc tôn giáo sẽ nhanh chóng thoát khỏi tầm kiểm soát cho dù nó được phát động từ thế lực nào tàn bạo đến đâu, có đầy mình kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường, từng chiến thắng chỗ này chỗ kia... Cũng có thể bị chết vì chính cuộc chiến do nó khơi mào, phát động…
Thông thường chỉ những kẻ vô thần, vô luân, vô đạo đức, mới liều lĩnh khơi mào bạo động tôn giáo bởi nó không có đời sống tâm linh, nó không bị ràng buộc lương tâm, và luôn mơ tưởng sẽ hưởng lợi từ cuộc chiến này. Nhưng lịch sử đã minh chứng ngược lại. Hận thù mang mầu sắc tôn giáo là thứ hận thù khủng khiếp… Nó là sự căm giận oán hờn sâu sắc đến mức luôn thôi thúc người ta có hành động trả thù. Đã có nhiều cuộc chiến tôn giáo sau khi xảy ra, người ta phát hiện âm mưu của những kẻ kích động xúi dục, thay vì hai tôn giáo đánh nhau, họ quay sang hợp tác để tiễu trừ kẻ lập mưu đẩy các tôn giáo vào vòng bạo động… Thế lực chính trị gian manh kia sẽ phải trả giá mà nó không bao giờ tưởng tượng được.
Những kẻ kích động hận thù để phát động chiến tranh mang mầu sắc tôn giáo sẽ ngày càng thoái hoá. Từ thoái hoá nhân cách, đến thoái hoá tư duy, rồi làm rối loạn hành vi… Và bắt đầu tự huỷ. Y như tấm lợp nhựa dãi dầu mưa nắng lâu ngày trông thì còn hình hài, động vào là vỡ vụn vậy… Cộng sản Việt Nam tồn tại được trong thế giới ngày nay đã khó, nay người cộng sản lại liều lĩnh âm mưu gây mầm phát động cuộc chiến mang mầu sắc tôn giáo. Nó sẽ giúp đẩy nhanh quá trình cộng sản tự huỷ, là vì họ muốn thế, y như lời cảnh báo của Lê-nin: “Không ai kết liễu được cộng sản trừ chính người cộng sản”.
Nền tảng tồn tại của các tôn giáo là bác ái và khoan dung… Cho nên cuối cùng thì mọi lỗi lầm đều được tha thứ, mọi mâu thuẫn giữa các tôn giáo sẽ được giải toả. Những kẻ vô luân làm giả tài liệu chứng cứ lập mưu kích động bạo động sẽ lộ diện… Nó sẽ nhanh chóng tự huỷ bởi không còn cơ sở nào để tồn tại trong lòng dân tộc được nữa. Đó là qui luật, là chân lý - Nó bất vị thân, cũng chẳng sợ bạo quyền dù là của cộng sản.
Cộng sản, và cộng sản Việt nam từ xưa đến nay tồn tại chủ yếu dựa vào bạo quyền. Bạo quyền được người cộng sản sẵn sàng đem ra sử dụng ngay cả với đồng chí cộng sản, thậm chí cả với người thân ruột thịt của cộng sản. Những chuyện thâm cung bí sử do chính những tên trùm cộng sản cuối đời tiết lộ, hay người đồng chí cộng sản là nạn nhân của cộng sản được nếm mùi “chuyên chính vô sản” viết ra là bằng chứng không thể chối cãi… Ở miền tây Nam Bộ sau 1975, có quan chức cộng sản bị đồng chí tổ chức ám sát ngay giữa trụ sở chết hụt phải chạy vào doanh trại quân đội tá túc (Bà Bạch Thị Ngọc Diệp)… Tổng bí thư csVN Đỗ Mười phải vào tận nơi rồi chua chát nói với tỉnh uỷ địa phương rằng: “Đừng để cộng sản đi tị nạn cộng sản thế này”… Căn nguyên là bà Diệp đã cả gan động đến món lợi sống còn của đảng uỷ địa phương. Động vào sự sống còn của cộng sản (bất luận món đó có hợp pháp hợp lẽ công bằng hay không) thì đến cộng sản cũng phải đi tỵ nạn cộng sản, huống hồ các tôn giáo luôn bị cộng sản coi là cừu địch.
Kể từ khi hệ thống cộng sản hùng mạnh ở Âu châu - Đầu não, đầu tầu của cộng sản sụp đổ tan tành, vài quốc gia cộng sản còn sót buộc phải hội nhập với thế giới văn minh hòng kéo dài sự sống - Tức là phải xa rời chủ thuyết cộng sản bỏ đi nhiều nguyên lý trong lý luận của chủ nghĩa Mác… Đầu tiên họ sửa đổi các nguyên lý kinh tế. Nhưng kinh tế chính là hạ tầng, là nền móng của một thể chế chính trị, thay đổi nó đương nhiên sẽ làm tự động làm thay đổi các yếu tố chính trị… Thay đổi chính trị thì chẳng khác gì cộng sản tự tay tròng thòng lọng vào cổ rồi nhờ người dân kéo lên giùm… Nguyễn Minh Triết cũng phải la lối om sòm: Bỏ điều 4 hiến pháp là chúng ta tự sát.
Lý luận cộng sản đã phá sản, hệ thống tư tưởng dẫn đường bị bế tắc, nền tảng kinh tế thì vay mượn nên hoàn toàn phụ thuộc thế giới văn minh bên ngoài… Lòng dân bao năm nay chưa bao giờ phục cộng sản nay trỗi dậy đòi công lý… Như thế đôi chân của chế độ cộng sản hiện thời đã lẩy bẩy và đứng trên sình lầy… Cộng sản sụp đổ là không tránh khỏi. Người cộng sản cũng biết vậy họ liền viện đến đôi nạng: Tuyên truyền lừa bịp và xuống tay bắt bớ, đàn áp và giết chóc. Nhưng tuyên truyền lừa bịp bây giờ không xuể với xã hội tin học… Giết người bây giờ không đơn giản như thời “chính quyền xô viết”… Chỉ có một cách duy nhất có thể giúp người cộng sản làm việc này là phải tạm thời đóng cửa quốc gia.
Và tạo ra tình huống khẩn cấp để đóng cửa quốc gia như là lối thoát cuối cùng cho người cộng sản. Một trong những cách người cộng sản tạo ra tình trạng khẩn cấp là kích động hận thù sắc tộc và tôn giáo, để các tôn giáo, các sắc tộc xung đột bạo động với nhau. Nhà nước cộng sản sẽ như một quan toà phân xử hai bên. Cho bên nào thua bên nào thắng tùy ý…
Khi sự kiện tổng giáo phận Hà Nội đòi tài sản đòi công lý nổ ra năm 2007, cộng sản đứng ngồi không yên. Những kẻ đầu não lưu manh bất đắc dĩ đã phải đóng kịch làm người lương thiện vội đến tận hiện trường vấn an Đức Tổng Giám Mục Hà Nội. Người Công Giáo khấp khởi vui mừng vì lần đầu tiên chứng kiến hiiện tượng lạ lùng đến thế - Cộng sản phục thiện ??? Nhưng sau đó diễn biến sự việc mọi người đã mục sở thị. Sự gia trá, lật lọng được bày ra, nhưng người cộng sản bất cần. Họ một mình một chiếu nói lấp liếm như mụ đàn bà bị truy vấn tội cắp vặt không quả tang… Phải cãi lấy được chứ không nhục mặt kẻ cắp…
Có người nói ông Nguyễn Tấn Dũng bị muối mặt với phe Hà Nội ngoan cố quyết phá đám những ván bài chính trị của ông ta... Ông ta vừa mới yết kiến Giáo Hoàng không bao giờ chỉ đạo làm cái việc tự huỷ hoại uy tín của mình trên trường quốc tế. Mặt khác con đường hoạn lộ của ông ta còn dài, làm như thế chẳng khác lấy đá ghè chân mình, sự nghiệp chính trị chết yểu… Nhưng lại có người cho rằng chính ông là thủ phạm, bởi khi tiếp HĐGMVN ông ta còn già mồm trơ chẽn bênh vực bộ máy truyền thông chuyên nghề lắp ghép đổi trắng thay đen.
Giới phân tích chính trị độc lập ở Việt Nam thì cho rằng csvn đang lúng túng, do phải đối phó với một thế lực mà họ vẫn lo sợ từ trong học thuyết… Suốt những năm tháng tồn tại, chính quyền cộng sản luôn mơ thứ quyền lực như thần quyền của tôn giáo. Thật là mỉa mai! Thần quyền của tôn giáo thì xuất phát từ sự yêu thương và chân thật. Yêu thương đến mức sẵn sàng từ bỏ chính mình… Trong khi cộng sản lại chuyên nghề giả dối, loè bịp, lưu manh giết người vô tội vạ, giết người có khi chỉ với duyên cớ lặt vặt (Xem Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên đoạn Trần Quốc Hoàn giết lưu manh Hà Nội vì từng là bạn của Hoàn). Mơ có thần quyền, đã chẳng có, nay lại đối mặt làm kẻ thù của thần quyền, người cộng sản làm sao mà ăn ngon ngủ yên ???
Và bây giờ sự kiện Tam Toà sảy ra như giọt nước tràn ly… Cộng sản Việt nam thực sự sợ hãi. Nhìn vào cách xử lý sự việc của nó, người ta nhận thấy sự lúng túng, bất nhất giữa các quan chức cộng sản. Sự ngạo mạn truyền thống của csvn biến đâu mất… Truyền thông láo lếu của cộng sản cũng phải bớt già mồm bởi làm thế chỉ phản tác dụng mà thôi – Cái nạng tuyên truyền lừa bịp coi như bị gẫy. Đàn áp giết người ư ??? Với giáo sĩ và giáo dân Công Giáo, được chết cho công lý vĩnh cửu của Chúa là phúc tử đạo - Tử đạo là con đường ngắn nhất về Thiên Đàng với Chúa. Cái gậy, cái nạng cuối cùng của tên lính tàn phế cộng sản bây giờ là kích động gây xung đột ngụy tạo dưới mầu sắc tôn giáo, may chăng kéo dài sự sống ???… Lịch sử nhân loại chưa từng có thế lực nào lại man rợ đến thế. Xung đột tôn giáo chưa bao giờ có thể giải thoát cho một thế lực chính trị.
Căn bản để tồn tại của một thế lực chính trị là tuân thủ qui luật, từ qui luật tự nhiên đến qui luật xã hội. Tôn trọng các giá trị nhân bản. Tôn trọng mọi lớp người trong xã hội bằng cách thực thi công lý. Đương nhiên cũng phải tôn trọng các chuẩn mực quốc tế mà loài người đã xây dựng… Tuyệt nhiên từ cổ chí kim không có sách nào dậy một thế lực chính trị muốn tồn tại thì phải gây hận thù tôn giáo, tiến đến bạo động và chiến tranh tôn giáo… Lê-nin cũng viết thành sách răn dậy người cộng sản rằng: Tuyên chiến với tôn giáo là một điều ngu xuẩn.
Tại sao csvn lại liều lĩnh và ngu muội đến thế ??? Có lẽ là vì trong lịch sử, csvn đã từng lợi dụng một số tôn giáo, gây xung đột để thủ lợi. Cuộc tiếm chiến miền Nam Việt Nam, cộng sản đã xâm nhập và lôi kéo được nhiều tu sĩ, tín đồ hoặc giáo dân không hiểu biết về cộng sản tham gia vào những cuộc xung đột. Từ sự kiện Phật Giáo 1963, đến Mậu Thân 1968, có rất nhiều tăng ni phật tử mơ hồ mà đi theo Việt cộng nằm vùng… Có những vị Hoà Thượng bị họ “cõng đi lên núi” rồi đưa ra Hà Nội. Lợi dụng uy danh của các vị cao tăng trong chiến tranh chưa hết, csvn còn lấy danh các vị để cưỡng lập giáo hội quốc doanh, mà ngày nay ai cũng nhận biết… Ở một góc độ nào đó, csvn đã thành công trong việc lợi dụng tôn giáo vào các mưu đồ chính trị bẩn thỉu của nó. Mặc dù lòng người không phục nhưng sự đã rồi…
Với kinh nghiệm đó, csvn những tưởng đem ra “nhân rộng điển hình” chiến thuật xung đột tôn giáo. Nhưng lịch sử đã sang những trang mới. Mỗi tôn giáo lại có những đặc thù riêng làm sao dùng chung một kinh nghiệm ??? Bộ mặt thật của cộng sản ngày càng lộ rõ, với các phương tiện kỹ thuật ngày nay, người ta không khó khăn lắm để vặch mặt bọn đầu gấu tội phạm xã hội đen tay chân công an cộng sản ngụy trang dưới danh nghĩa "quần chúng tự phát" hay "lớp áo tín đồ các tôn giáo" khác gây bất bình với Công Giáo. Bài học đau đớn của lịch sử còn tày liếp, tôn giáo mà bị quốc doanh hoá thì tín đồ bại hoại, đạo pháp tan hoang, nơi thờ tự thành đình làng, thành công ty…
Kích động hận thù, gây xung đột tôn giáo, tạo ra tình trạng khẩn cấp, đóng cửa quốc gia để giết người diệt khẩu. Csvn lần nữa đẩy quốc gia dân tộc Việt đến bờ vực thẳm. Kẻ nào chủ mưu làm việc này? Đó là 15 uỷ viên bộ chính trị csvn – Những kẻ người dân chưa bao giờ bầu lên, chưa bao giờ uỷ quyền – Họ là những kẻ ngụy quyền cố bám giữ quyền lực để kéo dài sự sống. Lịch sử sẽ phán xét chúng như đã từng phán xét những kẻ độc tài ác man – Stalin bây giờ ở đâu ??? Hồ Chí Minh bây giờ ở đâu ??? Con cháu ông ta bây giờ ở vị trí nào của xã hội loài người ??? Hỡi ôi ! Người cộng sản vẫn cho rằng chẳng có thánh thần chẳng có đời sau gì sốt, thế mà đời sống hiện hữu của xã hội loài người họ cũng tàn lụi cũng tuyệt tự thì họ tranh đấu cho cái gì ???
Nói với người cộng sản thì phải nó cũng không nghe, trái nó cũng không nghe. Tuyên chiến với tôn giáo, kích động hận thù để gây bạo động tôn giáo, cộng sản Việt Nam đang đi sâu vào con đường tự hủy. Đằng nào thì cộng sản cũng đổ, nhưng nếu chúng ta hèn nhát thì thật là bất hiếu với tổ tiên và nhục mặt với hậu thế.
Ngày 2.8.2009
Lê Sáng
Lịch sử loài người đã từng ghi nhận nhiều cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới quốc gia, chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo… Trong các cuộc chiến tranh đó, chiến tranh do bạo động tôn giáo là có vẻ tàn khốc và khó giải quyết nhất… Chính vì thế trong xã hội văn minh ngày nay, không một thế lực chính trị nào dám khơi mào một cuộc chiến mang mầu sắc tôn giáo. Bạo động mang mầu sắc tôn giáo sẽ nhanh chóng thoát khỏi tầm kiểm soát cho dù nó được phát động từ thế lực nào tàn bạo đến đâu, có đầy mình kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường, từng chiến thắng chỗ này chỗ kia... Cũng có thể bị chết vì chính cuộc chiến do nó khơi mào, phát động…
Thông thường chỉ những kẻ vô thần, vô luân, vô đạo đức, mới liều lĩnh khơi mào bạo động tôn giáo bởi nó không có đời sống tâm linh, nó không bị ràng buộc lương tâm, và luôn mơ tưởng sẽ hưởng lợi từ cuộc chiến này. Nhưng lịch sử đã minh chứng ngược lại. Hận thù mang mầu sắc tôn giáo là thứ hận thù khủng khiếp… Nó là sự căm giận oán hờn sâu sắc đến mức luôn thôi thúc người ta có hành động trả thù. Đã có nhiều cuộc chiến tôn giáo sau khi xảy ra, người ta phát hiện âm mưu của những kẻ kích động xúi dục, thay vì hai tôn giáo đánh nhau, họ quay sang hợp tác để tiễu trừ kẻ lập mưu đẩy các tôn giáo vào vòng bạo động… Thế lực chính trị gian manh kia sẽ phải trả giá mà nó không bao giờ tưởng tượng được.
Những kẻ kích động hận thù để phát động chiến tranh mang mầu sắc tôn giáo sẽ ngày càng thoái hoá. Từ thoái hoá nhân cách, đến thoái hoá tư duy, rồi làm rối loạn hành vi… Và bắt đầu tự huỷ. Y như tấm lợp nhựa dãi dầu mưa nắng lâu ngày trông thì còn hình hài, động vào là vỡ vụn vậy… Cộng sản Việt Nam tồn tại được trong thế giới ngày nay đã khó, nay người cộng sản lại liều lĩnh âm mưu gây mầm phát động cuộc chiến mang mầu sắc tôn giáo. Nó sẽ giúp đẩy nhanh quá trình cộng sản tự huỷ, là vì họ muốn thế, y như lời cảnh báo của Lê-nin: “Không ai kết liễu được cộng sản trừ chính người cộng sản”.
Nền tảng tồn tại của các tôn giáo là bác ái và khoan dung… Cho nên cuối cùng thì mọi lỗi lầm đều được tha thứ, mọi mâu thuẫn giữa các tôn giáo sẽ được giải toả. Những kẻ vô luân làm giả tài liệu chứng cứ lập mưu kích động bạo động sẽ lộ diện… Nó sẽ nhanh chóng tự huỷ bởi không còn cơ sở nào để tồn tại trong lòng dân tộc được nữa. Đó là qui luật, là chân lý - Nó bất vị thân, cũng chẳng sợ bạo quyền dù là của cộng sản.
Cộng sản, và cộng sản Việt nam từ xưa đến nay tồn tại chủ yếu dựa vào bạo quyền. Bạo quyền được người cộng sản sẵn sàng đem ra sử dụng ngay cả với đồng chí cộng sản, thậm chí cả với người thân ruột thịt của cộng sản. Những chuyện thâm cung bí sử do chính những tên trùm cộng sản cuối đời tiết lộ, hay người đồng chí cộng sản là nạn nhân của cộng sản được nếm mùi “chuyên chính vô sản” viết ra là bằng chứng không thể chối cãi… Ở miền tây Nam Bộ sau 1975, có quan chức cộng sản bị đồng chí tổ chức ám sát ngay giữa trụ sở chết hụt phải chạy vào doanh trại quân đội tá túc (Bà Bạch Thị Ngọc Diệp)… Tổng bí thư csVN Đỗ Mười phải vào tận nơi rồi chua chát nói với tỉnh uỷ địa phương rằng: “Đừng để cộng sản đi tị nạn cộng sản thế này”… Căn nguyên là bà Diệp đã cả gan động đến món lợi sống còn của đảng uỷ địa phương. Động vào sự sống còn của cộng sản (bất luận món đó có hợp pháp hợp lẽ công bằng hay không) thì đến cộng sản cũng phải đi tỵ nạn cộng sản, huống hồ các tôn giáo luôn bị cộng sản coi là cừu địch.
Kể từ khi hệ thống cộng sản hùng mạnh ở Âu châu - Đầu não, đầu tầu của cộng sản sụp đổ tan tành, vài quốc gia cộng sản còn sót buộc phải hội nhập với thế giới văn minh hòng kéo dài sự sống - Tức là phải xa rời chủ thuyết cộng sản bỏ đi nhiều nguyên lý trong lý luận của chủ nghĩa Mác… Đầu tiên họ sửa đổi các nguyên lý kinh tế. Nhưng kinh tế chính là hạ tầng, là nền móng của một thể chế chính trị, thay đổi nó đương nhiên sẽ làm tự động làm thay đổi các yếu tố chính trị… Thay đổi chính trị thì chẳng khác gì cộng sản tự tay tròng thòng lọng vào cổ rồi nhờ người dân kéo lên giùm… Nguyễn Minh Triết cũng phải la lối om sòm: Bỏ điều 4 hiến pháp là chúng ta tự sát.
Lý luận cộng sản đã phá sản, hệ thống tư tưởng dẫn đường bị bế tắc, nền tảng kinh tế thì vay mượn nên hoàn toàn phụ thuộc thế giới văn minh bên ngoài… Lòng dân bao năm nay chưa bao giờ phục cộng sản nay trỗi dậy đòi công lý… Như thế đôi chân của chế độ cộng sản hiện thời đã lẩy bẩy và đứng trên sình lầy… Cộng sản sụp đổ là không tránh khỏi. Người cộng sản cũng biết vậy họ liền viện đến đôi nạng: Tuyên truyền lừa bịp và xuống tay bắt bớ, đàn áp và giết chóc. Nhưng tuyên truyền lừa bịp bây giờ không xuể với xã hội tin học… Giết người bây giờ không đơn giản như thời “chính quyền xô viết”… Chỉ có một cách duy nhất có thể giúp người cộng sản làm việc này là phải tạm thời đóng cửa quốc gia.
Và tạo ra tình huống khẩn cấp để đóng cửa quốc gia như là lối thoát cuối cùng cho người cộng sản. Một trong những cách người cộng sản tạo ra tình trạng khẩn cấp là kích động hận thù sắc tộc và tôn giáo, để các tôn giáo, các sắc tộc xung đột bạo động với nhau. Nhà nước cộng sản sẽ như một quan toà phân xử hai bên. Cho bên nào thua bên nào thắng tùy ý…
Khi sự kiện tổng giáo phận Hà Nội đòi tài sản đòi công lý nổ ra năm 2007, cộng sản đứng ngồi không yên. Những kẻ đầu não lưu manh bất đắc dĩ đã phải đóng kịch làm người lương thiện vội đến tận hiện trường vấn an Đức Tổng Giám Mục Hà Nội. Người Công Giáo khấp khởi vui mừng vì lần đầu tiên chứng kiến hiiện tượng lạ lùng đến thế - Cộng sản phục thiện ??? Nhưng sau đó diễn biến sự việc mọi người đã mục sở thị. Sự gia trá, lật lọng được bày ra, nhưng người cộng sản bất cần. Họ một mình một chiếu nói lấp liếm như mụ đàn bà bị truy vấn tội cắp vặt không quả tang… Phải cãi lấy được chứ không nhục mặt kẻ cắp…
Có người nói ông Nguyễn Tấn Dũng bị muối mặt với phe Hà Nội ngoan cố quyết phá đám những ván bài chính trị của ông ta... Ông ta vừa mới yết kiến Giáo Hoàng không bao giờ chỉ đạo làm cái việc tự huỷ hoại uy tín của mình trên trường quốc tế. Mặt khác con đường hoạn lộ của ông ta còn dài, làm như thế chẳng khác lấy đá ghè chân mình, sự nghiệp chính trị chết yểu… Nhưng lại có người cho rằng chính ông là thủ phạm, bởi khi tiếp HĐGMVN ông ta còn già mồm trơ chẽn bênh vực bộ máy truyền thông chuyên nghề lắp ghép đổi trắng thay đen.
Giới phân tích chính trị độc lập ở Việt Nam thì cho rằng csvn đang lúng túng, do phải đối phó với một thế lực mà họ vẫn lo sợ từ trong học thuyết… Suốt những năm tháng tồn tại, chính quyền cộng sản luôn mơ thứ quyền lực như thần quyền của tôn giáo. Thật là mỉa mai! Thần quyền của tôn giáo thì xuất phát từ sự yêu thương và chân thật. Yêu thương đến mức sẵn sàng từ bỏ chính mình… Trong khi cộng sản lại chuyên nghề giả dối, loè bịp, lưu manh giết người vô tội vạ, giết người có khi chỉ với duyên cớ lặt vặt (Xem Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên đoạn Trần Quốc Hoàn giết lưu manh Hà Nội vì từng là bạn của Hoàn). Mơ có thần quyền, đã chẳng có, nay lại đối mặt làm kẻ thù của thần quyền, người cộng sản làm sao mà ăn ngon ngủ yên ???
Và bây giờ sự kiện Tam Toà sảy ra như giọt nước tràn ly… Cộng sản Việt nam thực sự sợ hãi. Nhìn vào cách xử lý sự việc của nó, người ta nhận thấy sự lúng túng, bất nhất giữa các quan chức cộng sản. Sự ngạo mạn truyền thống của csvn biến đâu mất… Truyền thông láo lếu của cộng sản cũng phải bớt già mồm bởi làm thế chỉ phản tác dụng mà thôi – Cái nạng tuyên truyền lừa bịp coi như bị gẫy. Đàn áp giết người ư ??? Với giáo sĩ và giáo dân Công Giáo, được chết cho công lý vĩnh cửu của Chúa là phúc tử đạo - Tử đạo là con đường ngắn nhất về Thiên Đàng với Chúa. Cái gậy, cái nạng cuối cùng của tên lính tàn phế cộng sản bây giờ là kích động gây xung đột ngụy tạo dưới mầu sắc tôn giáo, may chăng kéo dài sự sống ???… Lịch sử nhân loại chưa từng có thế lực nào lại man rợ đến thế. Xung đột tôn giáo chưa bao giờ có thể giải thoát cho một thế lực chính trị.
Căn bản để tồn tại của một thế lực chính trị là tuân thủ qui luật, từ qui luật tự nhiên đến qui luật xã hội. Tôn trọng các giá trị nhân bản. Tôn trọng mọi lớp người trong xã hội bằng cách thực thi công lý. Đương nhiên cũng phải tôn trọng các chuẩn mực quốc tế mà loài người đã xây dựng… Tuyệt nhiên từ cổ chí kim không có sách nào dậy một thế lực chính trị muốn tồn tại thì phải gây hận thù tôn giáo, tiến đến bạo động và chiến tranh tôn giáo… Lê-nin cũng viết thành sách răn dậy người cộng sản rằng: Tuyên chiến với tôn giáo là một điều ngu xuẩn.
Tại sao csvn lại liều lĩnh và ngu muội đến thế ??? Có lẽ là vì trong lịch sử, csvn đã từng lợi dụng một số tôn giáo, gây xung đột để thủ lợi. Cuộc tiếm chiến miền Nam Việt Nam, cộng sản đã xâm nhập và lôi kéo được nhiều tu sĩ, tín đồ hoặc giáo dân không hiểu biết về cộng sản tham gia vào những cuộc xung đột. Từ sự kiện Phật Giáo 1963, đến Mậu Thân 1968, có rất nhiều tăng ni phật tử mơ hồ mà đi theo Việt cộng nằm vùng… Có những vị Hoà Thượng bị họ “cõng đi lên núi” rồi đưa ra Hà Nội. Lợi dụng uy danh của các vị cao tăng trong chiến tranh chưa hết, csvn còn lấy danh các vị để cưỡng lập giáo hội quốc doanh, mà ngày nay ai cũng nhận biết… Ở một góc độ nào đó, csvn đã thành công trong việc lợi dụng tôn giáo vào các mưu đồ chính trị bẩn thỉu của nó. Mặc dù lòng người không phục nhưng sự đã rồi…
Với kinh nghiệm đó, csvn những tưởng đem ra “nhân rộng điển hình” chiến thuật xung đột tôn giáo. Nhưng lịch sử đã sang những trang mới. Mỗi tôn giáo lại có những đặc thù riêng làm sao dùng chung một kinh nghiệm ??? Bộ mặt thật của cộng sản ngày càng lộ rõ, với các phương tiện kỹ thuật ngày nay, người ta không khó khăn lắm để vặch mặt bọn đầu gấu tội phạm xã hội đen tay chân công an cộng sản ngụy trang dưới danh nghĩa "quần chúng tự phát" hay "lớp áo tín đồ các tôn giáo" khác gây bất bình với Công Giáo. Bài học đau đớn của lịch sử còn tày liếp, tôn giáo mà bị quốc doanh hoá thì tín đồ bại hoại, đạo pháp tan hoang, nơi thờ tự thành đình làng, thành công ty…
Kích động hận thù, gây xung đột tôn giáo, tạo ra tình trạng khẩn cấp, đóng cửa quốc gia để giết người diệt khẩu. Csvn lần nữa đẩy quốc gia dân tộc Việt đến bờ vực thẳm. Kẻ nào chủ mưu làm việc này? Đó là 15 uỷ viên bộ chính trị csvn – Những kẻ người dân chưa bao giờ bầu lên, chưa bao giờ uỷ quyền – Họ là những kẻ ngụy quyền cố bám giữ quyền lực để kéo dài sự sống. Lịch sử sẽ phán xét chúng như đã từng phán xét những kẻ độc tài ác man – Stalin bây giờ ở đâu ??? Hồ Chí Minh bây giờ ở đâu ??? Con cháu ông ta bây giờ ở vị trí nào của xã hội loài người ??? Hỡi ôi ! Người cộng sản vẫn cho rằng chẳng có thánh thần chẳng có đời sau gì sốt, thế mà đời sống hiện hữu của xã hội loài người họ cũng tàn lụi cũng tuyệt tự thì họ tranh đấu cho cái gì ???
Nói với người cộng sản thì phải nó cũng không nghe, trái nó cũng không nghe. Tuyên chiến với tôn giáo, kích động hận thù để gây bạo động tôn giáo, cộng sản Việt Nam đang đi sâu vào con đường tự hủy. Đằng nào thì cộng sản cũng đổ, nhưng nếu chúng ta hèn nhát thì thật là bất hiếu với tổ tiên và nhục mặt với hậu thế.
Ngày 2.8.2009
Lê Sáng
Inscription à :
Commentaires (Atom)
