Sunday, August 16, 2009
Ngô Nhân Dụng
Trong những năm đầu làm báo Người Việt, một lần được nhật báo The New York Times phỏng vấn, người ta hỏi Ðỗ Ngọc Yến lấy tờ báo nào làm mẫu, Yến trả lời ngay là báo Le Monde ở Pháp. Một phần vì khi ở Việt Nam nhiều người vẫn quen đọc tiếng Pháp và coi tờ Le Monde là một nhật báo đứng đắn, đáng kính trọng. Mấy lần họp tòa soạn Người Việt, Yến đã hăng say kể chuyện hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, Tướng De Gaule mời một số ký giả tới, nói với họ rằng trong công cuộc xây dựng một nước Pháp mới, cần có một tờ báo đàng hoàng. Ông tướng hứa chính phủ Pháp sẽ cung cấp một số vốn khởi đầu nhưng sẽ không can thiệp vào công việc thông tin này, để tờ báo hoàn toàn do giới làm báo chịu trách nhiệm phục vụ công ích. Ðỗ Ngọc Yến thích báo Le Monde vì trong đó những người viết báo có quyền quyết định đường lối thông tin và bảo vệ tính cách độc lập trước các xu hướng và thế lực chính trị.
Khi Yến còn sống chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau về những tờ báo có cơ cấu bảo đảm tính độc lập, coi việc thông tin trung thực, khách quan là danh dự nghề nghiệp. Một thí dụ chúng tôi hay nêu ra là tuần báo Economist ở Anh, còn Yến không hay đọc báo đó vì nghĩ đó là tờ báo chỉ thích hợp cho những người nghiên cứu kinh tế đọc. Cả hai chúng tôi đều thiết tha mong trong tương lai ở nước Việt Nam mình sẽ có những tờ báo và cơ sở truyền thông độc lập như vậy. Khi nói đến nước Pháp người ta nói đến Le Monde; ở Mỹ có các nhật báo New York Times, Wall Street Journal, Washington Post; nước Anh có những tờ Times, Observer, Ðài BBC, vân vân. Các tờ báo đó giống như những “định chế quốc gia” làm cho người dân các nước này hãnh diện. Một giấc mơ của Ðỗ Ngọc Yến là khi nước Việt Nam mình được sống tự do dân chủ thì anh chị em làm báo sẽ xây dựng không phải một mà nhiều cơ sở truyền thông độc lập, đứng đắn, có tầm vóc quốc tế như vậy. Trong số những tờ báo mà Yến đã đọc ở Việt Nam trước năm 1975, Yến ước mong nếu còn sống sẽ thấy những báo đứng đắn ít nhất cũng như Thần Chung, Chính Luận, hai tờ báo có lập trường đối chọi nhau nhưng kính trọng lẫn nhau. Từ mươi năm trước khi qua đời, Yến đã nói ngày nào trong nước được tự do sẽ xuất bản tờ Người Việt ở Sài Gòn. Cần tập cho đồng bào trong nước lối đọc báo mới, đọc những tờ báo đáng tin chứ không phải những báo chỉ đóng vai tờ truyền đơn chính trị. Nhiều người không hiểu được lối nhìn xa đó. Ðỗ Ngọc Yến tự học nghề báo, đi học Văn Khoa nhưng không bao giờ nghĩ đến việc dạy học hoặc viết văn. Từ khi lớn lên Yến hầu như không bao giờ làm một công việc nào khác để sinh sống, ngoài nghề báo - trừ mấy năm đầu mới sang Mỹ phải làm đủ thứ việc, trong đó có làm cán sự xã hội trong một vài năm. Yến ham làm báo như người ta ham đá banh, ham trồng hoa lan, chứ không phải nhắm làm báo để kiếm tiền. Cho nên nếu Ðỗ Ngọc Yến tha thiết với cái nghiệp làm báo, đến danh tự, đạo đức của nghề, điều đó cũng dễ hiểu. Yến được đào tạo trong môi trường Hướng Ðạo cho nên cũng thừa hưởng một nền móng đạo lý của phong trào này, những quy tắc đạo lý để mình sống theo suốt đời thì cũng là những quy tắc mình theo khi làm báo.
Chính Yến là người thúc đẩy từ đầu và cho đến cùng việc nhờ họa sĩ Nguyễn Thị Hợp vẽ bức tranh treo trên tường ở phòng tiếp khách báo Người Việt, mô tả việc viết tu chính án thứ nhất bảo đảm quyền tự do báo chí trong Hiến Pháp Mỹ. Yến thường mời các người khách ngoại quốc ngắm bức tranh này, và giải thích với họ rằng nếu không có Tu Chính Án số một thì không có nhật báo Người Việt. Vì chỉ khi sống trong một xã hội tự do như ở Mỹ thì những người tay không như Ðỗ Ngọc Yến mới có thể dựng lên cơ đồ một tờ báo được coi là lớn nhất của người Việt ở nước ngoài. Yến chưa bao giờ viết ra các quy tắc nghề nghiệp, nhưng Yến thường hay nói, rất chịu khó nói, không ngại nói. Và những điều Yến nói ra thường dựa trên những câu chuyện cụ thể, các quyết định trước mắt bắt buộc phải lựa chọn, chứ không tự nhiên đặt ra như những vấn đề trừu tượng và tổng quát. Yến không có khuynh hướng bàn chuyện lý thuyết, mặc dù anh hay nêu lên những quy tắc tổng quát khi quyết định điều gì. Những ý kiến của Yến thường dựa trên căn bản là đạo lý mà thế hệ chúng tôi đã hấp thụ trong trường học, cộng với phương cách cư xử phải chăng, lối sống khôn ngoan của người Việt mà từ nhỏ chúng ta đã học. Chẳng hạn như đối với các đồng nghiệp. Yến chủ trương không bao giờ gây tranh cãi, và thường không tham dự các vụ tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng. Có những lúc người Việt ở nước ngoài bàn tán, tranh luận sôi nổi về một đề tài nào đó, bao nhiêu tờ báo đã tham dự, đứng về phía bên này hay bên kia. Thí dụ như khi có hai hoặc ba ban chấp hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, hay khi các đoàn thể và các báo tranh luận vụ một nhà văn người Việt tị nạn kiện một trường đại học ở Boston, hay là những vụ nhỏ hơn như cộng đồng người Việt ở Nam California có hai người đều nhận là chủ tịch, các hội cựu học sinh Gia Long, Trưng Vương cũng có lúc như thế. Bao nhiêu tờ báo đăng các thông cáo tranh cãi xem bên nào phải, bên nào trái, ai cũng có những lý luận sắc bén cả, nhưng báo Người Việt thường không có ý kiến. Không những thế, Yến đề nghị Người Việt không đăng cả các thông cáo hoặc những bài lai cảo người ta gửi cho về các vấn đề đó.
Nhiều bạn bè có lúc đã tới tận tòa báo, thẳng thắn công kích báo Người Việt “hèn” không dám bày tỏ thái độ về các vấn đề sôi nổi cả cộng đồng. Nhưng Người Việt vẫn giữ thái độ đứng ngoài.
Một lý do mà Yến thường nêu lên là tờ báo không cần phải tỏ thái độ về tất cả các câu chuyện đang được dư luận tranh cãi. Im lặng cũng là một thái độ. Nó có ý nghĩa là tờ báo coi những vụ tranh cãi này chỉ là những chuyện nhỏ đã bị thổi phồng lên mà thôi. Không nên bắt độc giả Người Việt phải bận tâm về những vấn đề như vậy. Cứ chờ đợi, sẽ có ngày ai cũng thấy đó là những vấn đề nhỏ, sẽ chìm vào lãng quên.
Một lý do khác mà đa số anh em đồng ý với Ðỗ Ngọc Yến là chúng ta không nên đề cao những vấn đề làm chia rẽ cộng đồng. Cứ để yên, một xã hội phức tạp và căng thẳng như khối người Việt di tản đã có đủ lý do chia rẽ nhau lắm rồi; tờ báo không nên bắt đồng bào thấy nhiều cảnh chia rẽ và bêu riếu hơn nữa.
Nhiều người chê là Ðỗ Ngọc Yến và nhật báo Người Việt “tròn” quá, có thái độ “cầu an” trước các cuộc tranh cãi đầy sóng gió. Nhiều anh em trong tòa báo cũng cảm thấy máu nóng lên, muốn “tỏ thái độ” cho thiên hạ biết là “báo mình” không “trốn tránh.” Nhưng cuối cùng, lựa chọn của Ðỗ Ngọc Yến vẫn được mọi người chấp thuận. Cuối cùng mọi người thấy đó là một lựa chọn khôn ngoan.
Một câu hỏi mà Yến thường đặt là: Nếu như nhật báo Người Việt chọn một thái độ nào đó, đứng về một phe trong các cuộc tranh cãi, thì liệu có phải vì lựa chọn đó là lẽ phải, là sự thật duy nhất, ý kiến đúng nhất hay không? Khi trong cộng đồng có bao nhiêu người bất đồng ý kiến một cách sôi nổi như vậy, người viết báo có nên đưa ý kiến riêng của mình ra, dùng thế lực của một cơ quan ngôn luận để chinh phục độc giả hay không?
Nhiều khi các vấn đề đó lại chỉ là những chuyện cá nhân, hoặc liên hệ đến một nhóm người mà không nhất thiết là những vấn đề chung đến nỗi cần có những câu trả lời chung. Như vậy thì báo Người Việt có cần trình bày ý kiến của mình về các vụ như thế hay không? Vả lại, Yến thường nói khích, tại sao phải mang ý kiến của “một nhóm người làm báo” mà áp đặt trên độc giả và công chúng về những chuyện mà họ chẳng thấy liên can gì đến họ, mà họ cũng không cần biết nếu không vì có tờ báo nhắc đến?
Ðỗ Ngọc Yến có một quan niệm rõ ràng là một tờ báo phải là một định chế công ích, của chung tất cả mọi người chứ không phải của các chủ nhân, cũng không phải của các người viết trong tờ báo. Những người có quyền viết, quyền in báo, phải nhớ là mình được công chúng ủy nhiệm. Cho nên, không được đặt tư ý, tư lợi lên trên công việc mà xã hội chờ đợi nơi mình, là thông tin trung thực, khách quan, vô tư, những tiêu chuẩn mà độc giả có quyền được hưởng; cũng giống như khi bước vào tiệm ăn người ta trông đợi món ăn phải hợp vệ sinh vậy. Có bảo đảm các tiêu chuẩn như thế tờ báo mới giữ được lòng tin của độc giả.
Một nguyên nhân khiến Yến không để cho nhật báo Người Việt cãi nhau tay đôi với các đồng nghiệp là anh học kinh nghiệm khôn ngoan của các vị đàn anh đã làm báo ở Sài Gòn năm xưa. Yến nhớ từng chi tiết những vụ báo này chửi báo khác hồi đó. Anh học được một điều là những tờ báo lớn đã có địa vị rồi thì không bao giờ “cãi nhau tay đôi” với những tờ báo nhỏ, nhất là những báo thuộc loại chỉ thích gây sự. Vì dính vào những vụ tranh chấp đó không ích lợi gì cả, chỉ giúp cho tờ báo nhỏ được nổi tiếng. Thật ra trong nghề báo ai cũng biết những kinh nghiệm khôn ngoan đó; nhưng Yến là người thi hành được lối cư xử này chỉ vì bản tính Yến rất ôn hòa, nhẫn nhịn, không kiêu căng. Và nhất là anh biết tự đè nén không để tự ái nhất thời ảnh hưởng tới hành động của mình. Trong cuộc sống hàng ngày Yến cũng thường như vậy, không bao giờ nổi nóng khi bị bạn hay thù công kích.
Nhiều lần tờ báo Người Việt mắc phải những sơ suất khiến cho nhiều người hiểu lầm, có những cuộc biểu tình phản đối, nhiều người thuộc các đảng phái, các tổ chức chính trị dẫn đầu các cuộc biểu tình đó. Yến thường nhắc nhở tòa soạn rằng báo mình không bao giờ coi những người đã biểu tình chống mình là kẻ thù, nhất là các đoàn thể của họ. Những tin tức liên quan đến các đoàn thể đó, đáng loan tin vẫn phải loan tin.
Cũng vậy, khi thấy báo mình phạm lỗi lầm sơ suất, Yến thường yêu cầu Người Việt phải đính chính và xin lỗi độc giả thật nhanh chóng. Có một thứ mà Yến rất quý, luôn luôn bảo vệ không làm mất, là lòng tín nhiệm của độc giả. Yến tin rằng nói chung độc giả đều khôn chứ không dại như nhiều người tưởng. Ðó cũng là một niềm tin nền tảng của chế độ dân chủ tự do. Người làm báo không nên quá tự tin ở khả năng thuyết phục của ngòi bút mình dùng. Không nên cho là mình phải “hướng dẫn” dư luận. Ðừng giấu giếm, đừng che đậy, đừng tìm cách chạy quanh, đừng giở thói biện bác khôn khéo để che lấp những sai lầm. Mình có thể che giấu một lỗi lầm trong nhất thời, che giấu đối với một số người; hoặc mình tìm cách mở bài biện bác để chối cãi, không muốn nhận lỗi vì sợ mất thể diện. Nhưng về lâu dài thì sẽ không che giấu được gì cả, cuối cùng rồi người đọc họ biết hết ai nói thật, ai nói dối. Phải mất nhiều năm một tờ báo mới tạo được niềm tin tưởng của công chúng; nhưng chỉ cần một bước sơ suất là sẽ làm mất tất cả lòng tin ngay, và sau đó muốn xây dựng lại rất khó. Sau khi Ðỗ Ngọc Yến qua đời, khi nhớ tới Yến riêng tôi vẫn nhớ hình ảnh một người khiêm cung, Yến không bao giờ tìm cách áp đặt ý kiến của mình, không cố ý lôi kéo hoặc gây ảnh hưởng trên người khác. Trong nhiều cuộc thảo luận nội bộ, thường Yến chỉ ngồi im, để những người khác lý luận tranh cãi. Có lúc Yến chỉ nói một câu giản dị, “Báo Người Việt không làm như vậy,” thế là mọi người nghĩ lại, những người đang thảo luận lại tự quên mình đi để đặt mình vào địa vị “Báo Người Việt,” một thực thể khác, của chung, vượt trên thân phận của mỗi cá nhân. Nhiều khi nhờ thế mà mình suy nghĩ sáng sủa, rõ ràng hơn; vì không còn bị vướng trong cái tổ kén cá nhân của mình nữa.
Một mối quan tâm của Ðỗ Ngọc Yến cũng như Lê Ðình Ðiểu, là sau khi thế hệ này qua đời làm sao để “Báo Người Việt” sẽ giữ được như một thực thể vượt lên trên các cá nhân đã chung sức xây dựng lên nó. Tờ báo phải sống mãi như một định chế chung, nó thuộc về công chúng, thuộc cả cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chứ không phải của một nhóm anh em nào, bây giờ cũng như mai sau, dù rằng đó toàn là những người tốt chăng nữa. Và khi nào nước Việt mình được tự do làm báo, thì anh em phải giúp bà con xây dựng những tờ báo, những định chế trong ngành truyền thông đứng vững như một cách độc lập. Xây dựng lên những định chế như thế là một cách trả ơn tổ tiên, từ Chu Văn An đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Ðình Chiểu, các sĩ phu còn nêu gương sáng; cho tới những Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ðạo, Nhượng Tống, Phan Khôi, những nhà báo đáng kính lớp trước.
Nghề báo cũng chỉ là một định chế của xã hội con người. Ðịnh chế nào cũng có thể tốt hay xấu tùy theo những người làm việc trong đó. Khi nào người làm báo có ý thức tự coi trách nhiệm của mình là lớn, là có thể ảnh hưởng đến xã hội chung quanh, thì chính họ sẽ giúp cho nghề truyền thông có giá trị hơn. Ðỗ Ngọc Yến là một người như vậy. Mất anh mấy năm nay, nhiều người mới thấy tiếc. Vắng mặt anh, mới nhớ lại rằng khi còn có anh là đáng quý.
Ngô Nhân Dụng
vendredi 21 août 2009
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire